- Tiểu sử
- Thời thơ ấu
- Học
- Giảng bài
- Đời tư
- Đóng góp cho khoa học
- Đồng vị nặng
- Dự án Manhattan
- Hóa học vũ trụ
- Đo nhiệt độ
- Nhận biết
- Người giới thiệu
Harold Clayton Urey (1893-1981) là một giáo sư đại học, người đã nhận giải Nobel Hóa học vào năm 1934 vì đã phát hiện ra đơteri. Ông đã biết được phát hiện này sau khi tiến hành nhiều cuộc điều tra về các đồng vị.
Những đóng góp của Harold Clayton Urey được coi là vô giá, vì đơteri, còn được gọi là hydro nặng, được sử dụng để nghiên cứu cơ chế phản ứng và các quá trình sinh hóa. Cũng cần lưu ý rằng nó là thành phần thiết yếu của vũ khí nhiệt hạch và lò phản ứng hạt nhân.

Nhà khoa học đoạt giải Nobel Hóa học năm 1934. Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=567907
Urey cũng được ghi nhận với Thuyết Tiến hóa Cổ sinh vật học. Ông được coi là một trong những nhà hóa học Mỹ quan trọng nhất của thế kỷ 20. Nghiên cứu của ông về hóa học nguyên tử và vật lý đã làm cho ông xứng đáng với các giải thưởng khác nhau.
Một miệng núi lửa và một tiểu hành tinh được đặt theo tên của ông, như một cách để tưởng nhớ những đóng góp của ông sau khi nghiên cứu sự hình thành của các thiên thạch và bề mặt của mặt trăng. Một trường trung học ở Indiana cũng được đặt tên để vinh danh ông.
Tiểu sử
Thời thơ ấu
Harold Clayton Urey sinh ngày 29 tháng 4 năm 1893. Cha mẹ của ông là Mục sư Samuel Clayton Urey và Cora Rebecca Riensehl. Anh mất cha vì bệnh lao khi mới 6 tuổi.
Trong thời thơ ấu của mình, ông theo học các trường nông thôn ở Indiana, lớn lên khiêm tốn và các cuốn sách tiểu sử của ông mô tả cách ông đi từ một cậu bé nông dân trở thành một người nổi tiếng khoa học.
Học
Ông tốt nghiệp tiểu học năm 14 tuổi và tốt nghiệp trung học năm 1911. Lúc đó ông đã lấy được chứng chỉ giảng dạy và tiếp tục dạy học tại một trường học nhỏ ở Indiana.
Năm 1917, ông lấy bằng cử nhân động vật học tại Đại học Montana. Sau khi tốt nghiệp, ông dành hai năm làm nhà hóa học nghiên cứu tại Công ty Barret và sau đó vào Đại học California, nơi ông nhận bằng tiến sĩ hóa học.
Sự ham học hỏi của Urey đã khiến ông theo học vật lý nguyên tử tại Đại học Copenhagen cùng với Niels Bohr, người được trao giải Nobel Vật lý năm 1922.
Giảng bài
Ở tuổi 38, ông bắt đầu sự nghiệp nổi bật với tư cách là một giáo sư đại học, truyền đạt kiến thức của mình cho các nhà nghiên cứu sau:
-Đại học Montana
- Đại học John Hopkins
-Đại học Columbia
-Đại học Chicago
-Đại học Oxford
-University of California, nơi ông đã giúp thành lập Khoa Khoa học.
Sau khi nghỉ hưu, ông đã xuất bản 105 bài báo khoa học, trong đó có 47 bài báo liên quan đến chủ đề mặt trăng.
Đời tư
Như một giai thoại, người ta biết rằng Urey thích làm vườn và chăn nuôi gia súc. Anh cũng là một người yêu hoa lan, yêu thích của anh là hoa lan thuyền.
Ông kết hôn với Frieda Daum vào năm 1826, từ cuộc hôn nhân đó, bốn người con đã ra đời: ba gái và một trai. Ông qua đời tại La Jolla, California vào ngày 5 tháng 1 năm 1981, hưởng thọ 88 tuổi. Hài cốt của ông an nghỉ tại Nghĩa trang Fairfield ở Indiana.
Đóng góp cho khoa học

Những phát hiện của ông rất quan trọng trong việc chế tạo bom nguyên tử. Charles Levy
Có những người coi đó là một nhà khoa học, ông có một bộ óc phi thường. Những nghiên cứu và học tập của ông đã có những đóng góp đáng kể cho khoa học, đây là những đóng góp quan trọng nhất:
Đồng vị nặng
Là một giáo viên, Urey đã tiến hành nhiều thí nghiệm cho phép anh xây dựng lý thuyết. Nổi bật nhất là vào năm 1932, khi ông phát hiện ra đồng vị nặng của hydro có tên là đơteri. Sau phát hiện này, ông đã phát triển một quy trình để thu được nước nặng.
Để đạt được điều này, người ta đã dựa trên sự phân lập các đồng vị nặng từ oxy, nitơ, hydro, lưu huỳnh và carbon.
Khám phá này đáng để ông chỉ đạo trong Thế chiến thứ hai một nhóm điều tra về các phương pháp tách đồng vị ở Đại học Columbia. Phát hiện của họ đã góp phần vào sự phát triển của bom nguyên tử.
Phát hiện về đồng vị nặng đã mang về cho ông giải Nobel Hóa học và số tiền từ giải thưởng ông dùng để tài trợ cho nghiên cứu của riêng mình. Ông cũng góp phần cùng Isidor Isaac Rabi (Giải Nobel Vật lý năm 1944) để thúc đẩy các kế hoạch của mình về chùm phân tử.
Dự án Manhattan
Dự án này được phát triển trong Chiến tranh thế giới thứ hai dựa trên các nghiên cứu chuyên sâu về việc làm giàu uranium và tách các đồng vị nặng bằng phương pháp ly tâm. Dự án Manhattan cũng đề cập đến sự khuếch tán khí và nhiệt.
Urey được bổ nhiệm làm người đứng đầu Phòng thí nghiệm Vật liệu Hợp kim, nhưng trong thời gian thực hiện dự án này, ông đã gặp phải những trở ngại kỹ thuật và không đạt được kết quả khả quan ngay lập tức.
Tuy nhiên, sau chiến tranh, các cuộc điều tra đã cho kết quả và phương pháp do Urey đề xuất được sử dụng ở nhiều nước.
Giáo sư người Mỹ rời Dự án Manhattan vào năm 1945. Kể từ đó một số sai sót đã được sửa chữa, nhưng về bản chất công trình của Urey vẫn được lưu giữ, và nhà máy trở thành quan trọng nhất để tách đồng vị sau chiến tranh.
Hóa học vũ trụ
Urey là người sáng lập ra vũ trụ học, thuật ngữ này được sử dụng để mô tả lĩnh vực khoa học mặt trăng hiện đại. Ông cũng nghiên cứu về địa vật lý, nghiên cứu nguồn gốc của hệ mặt trời và tiến hành nghiên cứu cổ sinh vật học.
Từ những sáng kiến này, cuốn sách Nguyên tử, Phân tử và Câu chuyện và Hành tinh: Nguồn gốc và Sự phát triển của chúng đã ra đời, cả hai đều được viết cùng với nhà vật lý người Mỹ Arthur Edward Ruark.
Ông đã phát triển một niềm đam mê lớn đối với khoa học vũ trụ. Trên thực tế, khi Apollo 11 quay trở lại trái đất với các mẫu mặt trăng, Urey đã tự mình kiểm tra chúng.
Năm 1953, cùng với sinh viên Stanley Miller, ông đã thực hiện cái gọi là thí nghiệm Miller-Urey, kết quả là sự hình thành của bốn axit amin, là thành phần cơ bản của sự tồn tại của trái đất. Thành công của phát hiện này đã chuyển hướng sang các cuộc điều tra về nguồn gốc của sự sống.
Đo nhiệt độ
Những phát hiện của nhà khoa học hóa học này đã giúp vào năm 1940 có thể phát triển một phương pháp xác định nhiệt độ của nước biển cách đây 180 triệu năm, và do đó có thể nghiên cứu sự phong phú của các nguyên tố trên trái đất.
Ngày nay, công thức của nó được sử dụng phổ biến để phát triển phân tích các chu kỳ nóng lên và nguội đi của hành tinh.
Nhận biết
Nghiên cứu của Urey đã mang lại cho ông những giải thưởng quan trọng, một số trong số đó nổi bật nhất:
-Giải Nobel Hóa học (1934)
- Huân chương gợn sóng do Hiệp hội Hoàng gia trao tặng (1940)
- Bằng khen của Chính phủ Hoa Kỳ (1946)
-Diploma of Honor của Viện Hóa học Hoa Kỳ (1954)
- Huân chương Khoa học Quốc gia (1964)
- Huy chương vàng của Hiệp hội Thiên văn Hoàng gia (1966)
- Huân chương Priestley do Hiệp hội Hóa học Hoa Kỳ trao tặng năm 1973.
Người giới thiệu
- Các bài giảng Nobel, Hóa học 1922-1941, Công ty xuất bản Elsevier, Amsterdam, 1966
- Laura Gieske Evans và Thomas A. Evans. Chân dung Harold Clayton Urey. Lấy từ trang web chemistry.msu.edu của Đại học Bang Michigan
- C250 Kỷ niệm Columbias Trước thời đại của họ (2004) Harold Clayton Urey. Lấy từ columbia.edu
- Matthew Shindell (2019) Cuộc sống và Khoa học của Harold C. Urey
- Carl Sagan, IS Shklovskii (2003) Sự sống thông minh trong vũ trụ.
