Hymenolepis diminuta là một loại giun nhỏ ký sinh (sán dây) thường thấy ở chuột cống và chuột nhắt. Sự phân bố của chúng trên toàn thế giới, chúng đã được báo cáo ở các môi trường ôn đới đến nhiệt đới, và đặc biệt là ở những nơi có điều kiện vệ sinh kém.
Về cơ bản H. diminuta là ký sinh trùng của chuột nhưng điều quan trọng cần lưu ý là một số trường hợp nhiễm trùng lẻ tẻ ở người đã được mô tả.

Tỷ lệ lây nhiễm theo các cuộc khảo sát khác nhau thay đổi từ 0,001% đến 5,5%. Về phần mình, Hymenolepis nana, là loài sán dây gây nhiễm trùng ở người với tỷ lệ mắc cao nhất.
Sau đó, các oncospheres (ấu trùng) được giải phóng từ trứng xâm nhập vào thành ruột của vật chủ và phát triển thành nang sán (ấu trùng hình nang), hình thức truyền nhiễm của loài giun này.
Ấu trùng cysticercoid tồn tại thông qua quá trình phát sinh hình thái của động vật chân đốt khi trưởng thành. Sự lây nhiễm H. diminuta do vật chủ động vật có vú (chuột hoặc người) mắc phải khi chúng ăn vật chủ trung gian (động vật chân đốt) mang ấu trùng cysticercoid.
Con người có thể vô tình bị nhiễm bệnh do ăn phải côn trùng trên thực phẩm tiện lợi hoặc thực phẩm khác, cũng như trực tiếp từ môi trường. Ví dụ, trẻ nhỏ khi khám phá môi trường của chúng bằng miệng.
Sau khi ăn phải, mô động vật chân đốt bị nhiễm bệnh sẽ được tiêu hóa, do đó giải phóng các nang sán trong dạ dày và ruột non của vật chủ động vật có vú.
Sau khi ấu trùng cysticercoid được phóng thích, chúng tạo ra các cấu trúc hình nang gọi là scoleces để bám vào ruột non của vật chủ.
Sự trưởng thành của ký sinh trùng xảy ra trong 20 ngày đầu tiên và giun trưởng thành đạt chiều dài trung bình khoảng 30 cm.
Trứng được phóng thích vào ruột non từ các proglottids gravid (các phân đoạn sinh sản lưỡng tính lặp đi lặp lại nhiều lần) và phân hủy sau khi tách khỏi cơ thể của sán dây trưởng thành.
Trứng được tống ra ngoài môi trường theo phân của vật chủ động vật có vú, bắt đầu lại chu kỳ.

Các triệu chứng
Dạng nhiễm H. diminuta ở người thường không có triệu chứng, nhưng một số trường hợp đã được báo cáo khi bệnh nhân bị đau bụng, khó chịu, ngứa và tăng bạch cầu ái toan.
Triệu chứng cuối cùng này đề cập đến sự gia tăng không điển hình của bạch cầu (tế bào bạch cầu) là tế bào của hệ thống phòng thủ miễn dịch.
Chẩn đoán
Nhiễm trùng ở người thường được chỉ định bằng cách quan sát sự hiện diện của trứng trong phân.
Người giới thiệu
- Hancke, D., & Suárez, OV (2016). Mức độ lây nhiễm của cestode Hymenolepis diminuta trong quần thể chuột từ Buenos Aires, Argentina. Tạp chí Helminthology, 90 (90), 199–205.
- Mansur, F., Luoga, W., Buttle, DJ, Duce, IR, Lowe, A., & Behnke, JM (2016). Hiệu quả tẩy giun sán của các proteinase cysteine thực vật tự nhiên chống lại sán dây chuột Hymenolepis diminuta in vivo. Tạp chí Helminthology, 90 (03), 284–293.
- Marangi, M., Zechini, B., Fileti, A., Quaranta, G., & Aceti, A. (2003). Nhiễm trùng Hymenolepis diminuta ở một đứa trẻ sống ở khu đô thị Rome, Ý. Tạp chí Vi sinh lâm sàng, 41 (8), 3994–3995.
- Roberts, L. (1961). Ảnh hưởng của mật độ dân số đến mô hình và sinh lý của sự tăng trưởng ở Hymenolepis diminuta (Cestoda: Cyclophyllidea) trong Vật chủ Cuối cùng. Ký sinh trùng thực nghiệm, 11 (4), 332–371.
- Tena, D., Gimeno, C., Pérez, T., Illescas, S., Amondarain, I., González, A., Domínguez, J. & Bisquert, J. (1998). Nhiễm trùng ở người với Hymenolepis diminuta: Báo cáo trường hợp từ Tây Ban Nha. Tạp chí Vi sinh lâm sàng, 36 (8), 2375–2377.
- Tiwari, S., Karuna, T., & Rautaraya, B. (2014). Nhiễm trùng Hymenolepis diminuta ở trẻ em từ vùng nông thôn: Báo cáo về trường hợp hiếm gặp. Tạp chí Bác sĩ Phòng thí nghiệm, 6 (1), 58–59.
- Yang, D., Zhao, W., Zhang, Y., & Liu, A. (2017). Chuột nâu (Rattus norvegicus) ở tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc. Tạp chí Ký sinh trùng Hàn Quốc, 55 (3), 351–355.
