- Đức Matthew và tháng Giêng (1547-1615)
- Pedro Calderón de la Barca (1600-1681)
- Miguel de Cervantes Saavedra (1547-1616)
- Juana Ines de la Cruz (1651-1695)
- Jan Gawinski (1622-1684)
- Luis de Góngora y Argote (1561-1627)
- Baltasar Gracián (1601-1658)
- Christian Hoffmann von Hoffmannswaldau (1616-1679)
- Wespazjan Kochowski (1633-1700)
- Tobia Lionelli (1647-1714)
- Daniel Casper von Lohenstein (1635-1683)
- Faustina Maratti (1679-1745)
- John Milton (1608-1674)
- Charles Perrault (1628-1703)
- Jean-Baptiste Poquelin (1622-1673)
- Miguel de Molinos (1628-1696)
- Francisco de Quevedo (1580-1645)
- William Shakespeare (1564-1616)
- Lope de Vega (1562-1635)
- Théophile de Viau (1590-1626)
- Người giới thiệu
Các tác giả lớn của Baroque đã phát triển trong một thời kỳ thường được coi là có phong cách nghệ thuật sử dụng các chuyển động cường điệu cũng như các chi tiết rõ ràng, dễ diễn giải, để tạo ra kịch tính, căng thẳng, hoa mỹ và khoa trương trong điêu khắc, hội họa, kiến trúc, văn học, khiêu vũ. , nhà hát và âm nhạc.
Phong cách nghệ thuật được gọi là Baroque xuất hiện vào khoảng năm 1600 ở Rome, Ý và lan rộng khắp châu Âu. Sự phổ biến và thành công của nó đã được thúc đẩy bởi Giáo hội Công giáo, nơi đã quyết định trong Hội đồng Trent, để đáp lại cuộc Cải cách Tin lành, rằng nghệ thuật nên truyền tải và liên quan trực tiếp đến các chủ đề tôn giáo.

Miguel de Cervantes
Tầng lớp quý tộc tìm thấy trong phong cách kiến trúc Baroque một phương tiện để gây ấn tượng với du khách và thể hiện sự phóng túng, quyền lực và sự thống trị. Các cung điện Baroque được xây dựng, bao quanh bởi những khu vườn tráng lệ, cầu thang ngoạn mục và hành lang sang trọng theo trình tự tăng dần. Tuy nhiên, thuật ngữ baroque đã vượt ra khỏi phong cách nghệ thuật thời đó.
Từ này có nguồn gốc từ tiếng Pháp, được cho là bắt nguồn từ tiếng Bồ Đào Nha "baroque" hoặc "barrueco" trong tiếng Tây Ban Nha. Cả hai thuật ngữ đều đề cập đến một "viên ngọc trai thô hoặc không hoàn hảo". Không biết liệu từ này có được đưa vào các ngôn ngữ này thông qua tiếng Latinh, tiếng Ả Rập, hoặc một số nguồn khác hay không.
Theo thuật ngữ thông tục, ngày nay thuật ngữ baroque dùng để chỉ một thứ gì đó được làm công phu hoặc có nhiều chi tiết, mà không nhất thiết phải đề cập đến phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII và XVIII.
Thời kỳ nghệ thuật thường được phân thành ba giai đoạn: Sơ kỳ Baroque (1590-1625), Baroque Toàn phần (1625-1660), và Baroque muộn (1660-1725). Giai đoạn cuối cùng này cũng được biết đến, tùy thuộc vào nguồn, như một chuyển động rococo.
Baroque, bằng cách bao gồm nhiều hoạt động nghệ thuật, có một số đại diện nổi bật. Trong bức tranh, Rubens, Caravaggio và Diego Velázquez người Tây Ban Nha nổi bật. Bernini người Ý là một trong những nhà điêu khắc hàng đầu trong thời kỳ này. Kiến trúc Baroque đã tỏa sáng ở Đức, Áo, Nga và cả Mexico, nơi Nhà thờ Morelia, ở Michoacán, là một ví dụ rõ ràng.
Văn học cũng phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ Baroque, nhà viết kịch William Shakespeare có lẽ là tác giả nói tiếng Anh nổi bật nhất thế kỷ 17. Ở Pháp, phong trào Baroque được gọi là Grand Siecle, được Moliere, La Fontaine và Perrault cổ vũ.
Ở Tây Ban Nha, trong cái gọi là Thời kỳ Hoàng kim, các nhà viết kịch Pedro Calderón de la Barca và Lope de Vega, cùng với Juana Inés de la Cruz và Miguel de Cervantes (được coi là tiểu thuyết gia đầu tiên), là những đại diện tiêu biểu nhất.
Ai là tác giả vĩ đại nhất của Baroque? Đây là một danh sách.
Đức Matthew và tháng Giêng (1547-1615)

Mateo Alemán là một nhà văn Tây Ban Nha, sinh ra ở Seville, nơi ông tốt nghiệp đại học năm 1564. Theo một số nguồn tin, ông là hậu duệ của những người Do Thái bị buộc phải cải sang Công giáo sau năm 1492 và một số thành viên trong gia đình ông đã bị bức hại bởi Tòa án dị giáo. vì đã duy trì việc thực hành đạo Do Thái.
Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là Guzmán de Alfarache, một cuốn tiểu thuyết dã sử không hơn không kém 16 lần xuất bản trong 5 năm.
Pedro Calderón de la Barca (1600-1681)

Calderón de la Barca là một nhà viết kịch, nhà thơ và nhà văn thời kỳ Hoàng kim Tây Ban Nha. Trong một thời gian trong đời, ông là một linh mục và binh lính Công giáo La Mã. Ông đã phát triển tác phẩm của mình dựa trên phong cách sân khấu do Lope de Vega khởi xướng và sau này được coi là đỉnh cao của nhà hát Baroque Tây Ban Nha.
Các tác phẩm của ông thường thể hiện sự bi quan của ông về cuộc sống vốn chỉ được nung nấu bởi chủ nghĩa duy lý và đức tin của ông vào Chúa. Đời là mơ là tác phẩm đáng nhớ nhất của anh.
Miguel de Cervantes Saavedra (1547-1616)

Miguel de Cervantes được coi là nhà văn vĩ đại nhất bằng tiếng Tây Ban Nha. Tác phẩm chính của ông, Don Quixote, được coi là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên.
Đây là tác phẩm kinh điển của văn học thế giới và là một trong những tác phẩm tiểu thuyết vĩ đại nhất từng được viết. Ảnh hưởng của nó đối với ngôn ngữ Tây Ban Nha đã lớn đến mức nó thường được gọi là "ngôn ngữ của Cervantes."
Juana Ines de la Cruz (1651-1695)

Sor Juana Inés de la Cruz là một nhà văn và nhà triết học tự học người Mexico, sinh ra ở San Miguel Nepantla. Cô là một trong những nhà thơ chính của Baroque. Được người đời gọi là "Nàng thơ thứ bảy".
Bà vừa được coi là một nhà văn Mexico vừa là một phần của Kỷ nguyên vàng Tây Ban Nha. Giấc mơ, một bài thơ dài triết lý, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông.
Jan Gawinski (1622-1684)

Nhà thơ Ba Lan thời Baroque, ông thuộc thế hệ người Sarmatia (thế hệ của John III Sobieski). Ông học tại Đại học Jagellon và đã ở trong triều đình của Giám mục Charles Ferdinand Vasa. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Idylls, tôn vinh cuộc sống trong các biệt thự Ba Lan ở Krakow.
Luis de Góngora y Argote (1561-1627)

Góngora là nhà thơ trữ tình Tây Ban Nha, cùng với đối thủ truyền kiếp Francisco de Quevedo, được coi là một trong những nhà thơ Tây Ban Nha nổi bật nhất mọi thời đại.
Phong cách Gongorismo (còn được gọi là culteranismo), được thành lập bởi Góngora. Các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Solitudes và Fable of Polyphemus và Galatea.
Baltasar Gracián (1601-1658)

Baltasar Gracián là một tu sĩ Dòng Tên người Tây Ban Nha, nhà văn Baroque và triết gia. Anh sinh ra ở Belmonte, gần Calatayud. Các tác phẩm của ông được Schopenhauer và Nietzsche khen ngợi.
The Criticón chắc chắn là kiệt tác của ông và là một trong những tác phẩm chính của Thời kỳ Hoàng kim. Đây là một cuốn tiểu thuyết ngụ ngôn có độ dài lớn với âm hưởng triết học. Gracián là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của phong cách văn học baroque Tây Ban Nha tên là Conceptismo.
Christian Hoffmann von Hoffmannswaldau (1616-1679)

Là một nhà thơ người Đức của thời kỳ Baroque, ông sinh ra và mất ở Breslau, nơi ông quan tâm đến chính trị khi còn trẻ, cuối cùng ông chiếm được vị trí Bürgermeister. Khi còn sống, các bài thơ của ông chủ yếu lưu hành dưới dạng bản thảo.
Ông được coi là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng nhất trong thời kỳ này. Phong cách thơ của ông được biết đến với cái tên Galante và được đặc trưng bởi việc sử dụng các phép ẩn dụ ngông cuồng và sử dụng khéo léo các phép tu từ và sự khêu gợi không nao núng.
Wespazjan Kochowski (1633-1700)

Được coi là một trong những nhà sử học và nhà thơ đáng chú ý nhất của Baroque Ba Lan, cũng như đại diện rõ ràng nhất cho triết học và văn học của chủ nghĩa Sarmism. Trong cuộc đời của mình, ông đã tham gia vào đời sống chính trị của đất nước của mình và có uy tín lớn trong giới quý tộc.
Kiệt tác của ông là Lã Bất Vi không nhàn, tuyển tập mấy trăm câu thơ chia làm bốn cuốn. Ông là bạn thân nhất của Jan Gawinski, một nhà thơ Baroque lỗi lạc khác.
Tobia Lionelli (1647-1714)
Nhà văn và nhà thuyết giáo người Ý, các bài giảng của ông đóng một vai trò quan trọng trong việc khẳng định ngôn ngữ Slovenia. Anh sinh ra trong một người mẹ là người Slovenia và cha là người Ý ở Quận Gorizia.
Ông gia nhập dòng Capuchin Friars Minor và phục vụ trong các tu viện khác nhau ở các vùng đất của Slovenia, bao gồm cả tu viện của Thánh Phanxicô Assisi và ở Croatia. Ông đã viết hơn 230 bài giảng, mà ông đã xuất bản trong một loạt năm cuốn sách mà ông đặt tên là Sacrum promptuarium hay Sổ tay thiêng liêng.
Daniel Casper von Lohenstein (1635-1683)

Nhà viết kịch, luật sư, nhà ngoại giao và nhà thơ Baroque sinh ra ở Silesia, một vùng lịch sử nằm giữa Ba Lan, Cộng hòa Séc và Đức ngày nay. Việc sản xuất thơ ca của anh ấy, xem xét công việc đồng thời của anh ấy với tư cách là một luật sư và nhà ngoại giao, thật đáng kinh ngạc.
Ông chủ yếu được biết đến với tư cách là tác giả của các tác phẩm sân khấu được đánh dấu bởi Chủ nghĩa Cổ điển Pháp nổi tiếng. Ông đã sử dụng cường điệu và kịch tính hóa trong các tác phẩm của mình để làm nổi bật sự tương phản với "thực tế tốt hơn."
Faustina Maratti (1679-1745)

Nhà thơ và họa sĩ người Ý thời kỳ Baroque, sinh ra ở Rome. Ngay từ khi còn nhỏ, anh đã nhận được một nền giáo dục tốt bao gồm âm nhạc, mỹ thuật và trên hết là thơ.
Sau khi kết hôn với nhà thơ Giambattista Felice Zappi, nhà của cô từng là trụ sở của một nhóm văn học nổi tiếng bao gồm Händel, Scarlatti và Crescimbeni. Trong số các tác phẩm của cô có 38 sonnet được xuất bản trong bộ sưu tập Rime của chồng cô vào năm 1723.
John Milton (1608-1674)

Nhà thơ Anh, người hầu trung thành của Khối thịnh vượng chung Anh dưới thời Oliver Cromwell. Ông đã viết trong một thời điểm có nhiều luồng tôn giáo và cuộc chính biến.
Ông được biết đến với bài thơ sử thi Paraíso Perdido, được ông viết từ năm 1658 đến năm 1664 khi bị mù. Tiếp theo tác phẩm này là Thiên đường phục hồi, được ông xuất bản năm 1671 cùng với bi kịch Samson Agonistes.
Charles Perrault (1628-1703)

Tác giả và thành viên của viện hàn lâm Pháp. Ông đã đặt nền móng cho một thể loại văn học mới, truyện cổ tích, với các tác phẩm của mình bắt nguồn từ những câu chuyện dân gian xưa.
Cô bé quàng khăn đỏ nổi tiếng nhất trong số đó, cùng với Cinderella, Puss in Boots, Beauty and the Beast. Một số trong số chúng đã được chuyển thể thành opera và múa ba lê, sân khấu và phim.
Jean-Baptiste Poquelin (1622-1673)

Được biết đến nhiều hơn với nghệ danh Moliere , nhà viết kịch sinh ra ở Pháp này được coi là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất về hài kịch trong văn học phương Tây.
Trong số các tác phẩm chính của ông có The Misanthrope, The School of Wives, Tartufo, The Imaginary Sick, và những tác phẩm khác. Sinh ra trong một gia đình thịnh vượng, anh học tại trường Cao đẳng Clermont.
Anh bén duyên với sân khấu từ rất sớm, khi mới 13 tuổi anh đã tham gia làm diễn viên lưu động để trau dồi kỹ năng diễn hài và đồng thời là một nhà văn.
Trong một buổi biểu diễn của nhân vật chính trong vở kịch The Imaginary Sick của mình, Moliere, người bị bệnh lao, đã lên cơn ho và kết liễu cuộc đời mình.
Miguel de Molinos (1628-1696)
Nhà thần bí người Tây Ban Nha, đại diện chính của thời kỳ phục hưng tôn giáo được gọi là Chủ nghĩa Quie. Ông đã xuất bản năm 1675 tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Người hướng dẫn tinh thần, sau này được dịch sang tiếng Ý, Latinh, Pháp, Hà Lan, Anh và Đức.
Các văn bản của ông rất nổi tiếng và đến năm 1685, bảy ấn bản đã được thực hiện ở Ý và ba ở Tây Ban Nha.
Francisco de Quevedo (1580-1645)
Chính trị gia Tây Ban Nha, nhà văn và nhà quý tộc thời Baroque. Cùng với đối thủ truyền kiếp của mình, Luis de Góngora, ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất trong thời đại của mình.
Phong cách của anh ấy được đặc trưng bởi thứ được gọi là conceptismo, hoàn toàn trái ngược với kiểu culteranismo mà Góngora sử dụng. Cuốn tiểu thuyết duy nhất của ông là El Buscón, một tác phẩm được chia thành ba cuốn. Ông cũng xuất bản 15 cuốn sách về các chủ đề thần học, bao gồm Cái nôi và Sự chôn cất cũng như Sự quan phòng của Chúa.
William Shakespeare (1564-1616)
Nhà thơ, nhà viết kịch và diễn viên người Anh, được coi là nhà văn nói tiếng Anh vĩ đại nhất và là nhà viết kịch lỗi lạc nhất trên thế giới. Tác phẩm rộng lớn của ông, bao gồm cả các hợp tác, bao gồm khoảng 38 vở kịch, 154 bài sonnet, hai bài thơ tường thuật dài và một vài câu thơ.
Các vở kịch của ông đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng và được biểu diễn nhiều hơn bất kỳ nhà viết kịch nào khác. Tác phẩm đầu tiên của ông là phim hài, được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của thể loại này.
Sau đó, ông chủ yếu viết các vở bi kịch, bao gồm Hamlet, Othello, Vua Lear và Macbeth. Trong giai đoạn cuối, ông viết những vở bi kịch, còn được gọi là những mối tình lãng mạn, và hợp tác với các nhà viết kịch khác.
Lope de Vega (1562-1635)
Nhà viết kịch, nhà thơ và tiểu thuyết gia người Tây Ban Nha, một trong những nhân vật chủ chốt của Thời kỳ Vàng Tây Ban Nha và thời kỳ Baroque.
Danh tiếng của ông trong thế giới văn học Tây Ban Nha hầu như không kém Cervantes, trong khi sản lượng văn học của ông không ai sánh kịp và khiến ông trở thành một trong những tác giả viết nhiều nhất trong lịch sử văn học thế giới.
Được chính Cervantes đặt biệt danh là Fénix de los Ingenios và Monster of Nature, Lope de Vega đã sáng tạo lại nhà hát Tây Ban Nha và biến nó thành một hiện tượng văn hóa lớn. Ít nhất 3.000 bài sonnet, 3 cuốn tiểu thuyết, 9 bài thơ sử thi và 500 vở kịch được cho là do ông.
Théophile de Viau (1590-1626)
Nhà thơ và nhà viết kịch của Pháp Baroque, sinh ra ở Clairac. Ông tham gia vào các cuộc chiến tranh theo đạo Tin lành ở Guyana từ năm 1615 đến năm 1616. Sau chiến tranh, ông được giải ngũ và trở thành một nhà thơ trẻ xuất sắc tại triều đình.
Ông tiếp xúc với những ý tưởng của nhà triết học người Ý Lucilio Vanini, người luôn nghi ngờ về sự bất tử của linh hồn con người. Do những ý tưởng tôn giáo mang tính cách mạng của mình, de Viau bị trục xuất khỏi Pháp vào năm 1619 và đi du lịch trong vài năm ở châu Âu. Ông đã viết nhiều bài thơ trào phúng, sonnet, odes, và tao nhã.
Người giới thiệu
- Đặc điểm của văn học thời kì baroque là gì? Lấy từ enotes.com.
- Văn học Mỹ thời kỳ đầu. Lấy từ Courseite.uhcl.edu.
