- nét đặc trưng
- Nơi sống và phân bố
- Môi trường sống
- Phân phối
- Phân loại học
- Sinh sản
- Dinh dưỡng
- Các ứng dụng
- Chất chuyển hóa
- Người giới thiệu
Penicillium roqueforti là một loại nấm Ascomycota thuộc họ Trichocomaceae có đặc điểm là, trong số các khía cạnh khác, biểu hiện các tế bào đồng bào hình bàn chải. Trong môi trường nuôi cấy, nó thể hiện sự đa dạng về hình thái học, nhưng nhìn chung có biên khuẩn lạc được xác định rõ.
Trong tự nhiên, nó có thể được tìm thấy trong nhiều loại giá thể, bao gồm đất, rễ cây và hoa quả. Ngành công nghiệp thực phẩm đã sử dụng nó trong vài thế kỷ để sản xuất pho mát xanh, chịu trách nhiệm về màu sắc, mùi và vị đặc trưng của nó.
Bào tử Penicillium roqueforti. Lấy và chỉnh sửa từ: Arunbiel.
Do sự đa dạng về hình thái của loài này, một số tác giả cho rằng nó thực sự là một phức hợp của các loài bao gồm các loài Penicillium glaucum, P. stilton, P. gorgonzolae và P. aromaum. Các nhà nghiên cứu khác cho rằng chúng là giống của cùng một loài.
nét đặc trưng
Vì Penicillium roqueforti thường không có cấu trúc hữu tính, các mô tả dựa trên sự phát triển trong môi trường nuôi cấy. Trong nuôi cấy PDA, màu sắc khuẩn lạc thay đổi từ vàng nhạt đến xanh xám đậm.
Kích thước của khuẩn lạc cũng có thể thay đổi đáng kể và biên của nó đều đặn, mặc dù chúng có thể từ mỏng đến rất dày. Mặt khác, kết cấu của thuộc địa có thể mịn như nhung, có lông tơ, có vân hoặc bất kỳ kết cấu nào ở giữa.
Trong chiết xuất mạch nha, khuẩn lạc phát triển có đường kính lên đến 50 mm, với màu xanh lá cây và rìa tương tự như sợi mạng nhện, trong khi ở thạch YES hoặc Czapek, nó chỉ phát triển đến 40 mm, cho thấy màu sắc chuyển từ màu xanh lục thậm chí là màu đen, trong khi rìa của khuẩn lạc có kết cấu mịn như nhung.
Một đặc điểm của loài này là sản sinh các bào tử vô tính trong các phialit sắp xếp theo hình bàn chải.
Nơi sống và phân bố
Môi trường sống
Trong môi trường tự nhiên, Penicillium roqueforti có thể sống ở nhiều loại giá thể khác nhau, chủ yếu ở các loại đất giàu vật liệu thực vật phân hủy. Nó cũng có thể phát triển trên rễ, thân cây và thậm chí cả quả của rất nhiều loài thực vật.
Phân phối
Mặc dù biểu tượng cụ thể của loài đề cập đến địa phương nơi nó được tìm thấy lần đầu tiên (Roquefort-sur-Soulzon, Pháp), loài này mang tính quốc tế và có sự phân bố rộng rãi trên toàn thế giới.
Phân loại học
Penicillium roqueforti là một loài nấm Ascomycota, thuộc lớp Eurotiomycetes, bộ Eurotiales và họ Trichocomaceae. Chi Penicillium trước đây được xếp vào nhóm nấm bất toàn (Deuteromycetes) vì giai đoạn hữu tính của nó chưa được biết đến.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu nấm mốc học đã xác định rằng Penicillium là dạng vô tính hoặc dạng vô tính của một nhóm nấm cũng có dạng hữu tính (teleomorph), đó là lý do tại sao chi này được di dời trong nhóm nấm Ascomycota.
Penicillium roqueforti được nhà nấm học Bắc Mỹ Charles Thom mô tả lần đầu tiên vào năm 1906. Nó có sự đa dạng hình thái cao, điều này đã cản trở sự ổn định phân loại của nó. Ban đầu, loài này là một nhóm nấm không đồng nhất tạo ra bào tử màu xanh lam, sau đó nhóm này bị tách ra và tập hợp lại nhiều lần.
Các nghiên cứu phân tử cho phép tách ba loài: Penicillium roqueforti, P. carneum và P. paneum. Tuy nhiên, một số dạng hình thái của Penicillium roqueforti đã được mô tả như các loài khác, bao gồm Penicillium glaucum, P. stilton, P. gorgonzolae và P. aromaum, không được coi là hợp lệ.
Sinh sản
Như đã chỉ ra trước đây, Penicillium roqueforti là anamorph, tức là giai đoạn sinh sản vô tính của loài. Sự sinh sản này chủ yếu đạt được thông qua việc tạo ra các bào tử trong một cấu trúc được gọi là conidiophore. Những bào tử này có khả năng nảy mầm mà không cần sự thụ tinh của chúng.
Giai đoạn hữu tính của các loài trong tự nhiên vẫn chưa được biết rõ, tuy nhiên, bằng kinh nghiệm trong phòng thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã cố gắng tạo ra sự hình thành cấu trúc sinh sản, cũng như sinh sản hữu tính ở loài này.
Dinh dưỡng
Penicillium roqueforti là một loài hoại sinh, vì vậy nó đòi hỏi chất hữu cơ đã được chuẩn bị sẵn để làm thức ăn. Trong tự nhiên, nó ăn xác thực vật. Nó cũng có thể làm hỏng một số loại thực phẩm, ví dụ, tạo ra nấm mốc tấn công bánh mì lúa mạch đen.
Các ứng dụng
Ngành công nghiệp thực phẩm sử dụng Penicillium roqueforti để sản xuất các loại pho mát xanh khác nhau. Nấm là nguyên nhân chính tạo ra hương vị và cũng là màu sắc của những loại pho mát này. Sự khác biệt giữa các loại phô mai xanh khác nhau có thể do phương pháp sản xuất hoặc sử dụng các chủng nấm khác nhau.
Việc sản xuất pho mát của con người là một hoạt động hàng thế kỷ, có từ thời đồ đá mới, khoảng 6000 năm trước Công nguyên. C. Phô mai xanh được làm từ các loại sữa khác nhau, chẳng hạn như sữa dê và sữa bò, và được tiêu thụ trên toàn thế giới.
Thông thường, để lấy nấm trong quá trình làm pho mát, các nhà sản xuất sử dụng bánh mì lúa mạch đen được bảo quản ở những nơi ẩm ướt, cho phép sự phát triển của nấm mốc Penicillium roqueforti, nấm này sẽ được sử dụng làm chất cấy.
Trong số các loại pho mát được làm dựa trên Penicillium roqueforti là Roquefort, Bleu de Bresse, Bleu du Vercors-Sassenage, Brebiblu, Cabrales, Cambozola hay còn gọi là Cashel Blue và Danish blue.
Penicillum roqueforti cũng được sử dụng để sản xuất các hợp chất hoạt tính sinh học có hoạt tính kháng sinh. Ngoài ra, họ sản xuất hương liệu và nước hoa, việc sử dụng không được FDA quản lý.
Phô mai xanh, được làm dựa trên nấm Penicillium roqueforti. Được lấy và chỉnh sửa từ: smial.
Chất chuyển hóa
Nấm P. roqueforti, trong các điều kiện canh tác cụ thể, có thể tạo ra các chất chuyển hóa thứ cấp có thể gây hại. Một trong những chất chuyển hóa này là Aristoloquene, một sesquiterpene hai vòng, là tiền chất của độc tố PR.
Chất độc này, có thể được tạo ra với số lượng lớn, có đặc tính gây độc cho cơ và đã liên quan đến các sự cố do tiêu thụ ngũ cốc bị ô nhiễm. Tuy nhiên, độc tố PR không bền trong phô mai và nhanh chóng chuyển thành PR imine, không độc.
Penicillium roqueforti cũng tạo ra một chất độc thần kinh rất mạnh, được gọi là roquefortin C, có khả năng tạo ra, ít nhất là ở chuột thí nghiệm, co giật, tổn thương gan và chảy máu trong đường tiêu hóa.
Tuy nhiên, chất này được sản xuất với số lượng rất nhỏ và nồng độ của nó trong pho mát quá thấp nên có thể gây tác dụng ngược.
Các chủng Penicillium roqueforti hoang dã không điển hình cũng có thể tạo ra các độc tố khác như patulin, axit penicylic, citrinin và axit mycophenolytic, tuy nhiên các chủng thương mại không tạo ra các độc tố này.
Mặt khác, khi Penicillium roqueforti có mặt trong hỗn hợp ngũ cốc và thức ăn ủ chua, nó dường như là nguyên nhân gây sẩy thai và giữ lại nhau thai ở gia súc.
Người giới thiệu
- LB Bullerman (2003). Độc tố nấm mốc. Phân loại, Trong Bách khoa toàn thư về Khoa học Thực phẩm và Dinh dưỡng, Ấn bản lần thứ 2 . Elsevier.
- Penicillium roqueforti. Trên Wikipedia. Khôi phục từ: en.wikipedia.org
- V. Gómez (2019). Penicillium: đặc điểm, phân loại, hình thái, môi trường sống. Trong cuộc sống. Phục hồi từ: liveseder.com.
- M. Boysen, P. Skouboe, J. Frisvad & L. Rossen (1996). Phân loại lại nhóm Penicillium roqueforti thành ba loài trên cơ sở cấu hình sinh hóa và di truyền phân tử. Vi trùng học.
- J. Ropars, M. López-Villavicencio, J. Dupont, A. Snirc, G. Gillot, M. Coton, E. Coton & T. Giraud (2014). Cảm ứng sinh sản hữu tính và đa dạng di truyền ở nấm pho mát Penicillium roqueforti. Ứng dụng Tiến hóa.
- CM Visagie, J. Houbraken, JC Frisvad, SB Hong, CGW Klaassen, G. Perrone, KA Seifert, J. Varga, T. Yaguchi & RA Samson (2014). Nhận dạng và danh pháp của chi Penicillium. Các nghiên cứu về Mycology.
- C. Lyre. Penicillium: đặc điểm, hình thái, môi trường sống, sinh sản. Phục hồi từ: liveseder.com.