- Đặc điểm chung
- Xuất hiện
- Lá
- những bông hoa
- Trái cây
- Thành phần hóa học
- Phân loại học
- Từ nguyên
- Từ đồng nghĩa
- Nơi sống và phân bố
- Tính chất
- Cách sử dụng
- Quan tâm
- Yêu cầu
- Văn hóa
- Mùa gặt
- Bệnh dịch và bệnh tật
- Người giới thiệu
Artemisia annua là một loài cây thân thảo có mùi thơm, thuộc họ Cúc. Thường được gọi là cây ngải ngọt, cây ngải cứu hay cây ngải cứu hàng năm, là một loại cây có nguồn gốc từ miền đông Trung Quốc.
Đây là một loại cây hàng năm phát triển nhanh với một thân cây thân thảo có chiều cao lên đến 2 m. Các lá nhọn màu xanh lá cây và ba lỗ rất thơm, hoa màu vàng lục được tập hợp thành các gai cuối.
Artemisia annua. Nguồn: Raffi Kojian
Môi trường sống tự nhiên của nó nằm trên các khu vực đá và đất hoang ở rìa các khu vực cây cối rậm rạp và sườn núi bán sa mạc ở độ cao 2.000-3.500 mét so với mực nước biển. Nó phát triển hiệu quả trong điều kiện phơi nắng đầy đủ, trên đất sét và được cung cấp đầy đủ chất hữu cơ, mặc dù nó phát triển trên đất nghèo thì tốc độ tăng trưởng của nó thấp hơn.
Từ xa xưa nó đã được coi là cây thuốc dùng để hạ sốt và cụ thể hơn là bệnh sốt rét. "Artemisinin" là thành phần tích cực được chiết xuất từ thân, lá và hoa, nồng độ của nó cao hơn trong các chồi mới.
Hiện nay, loài Artemisia annua được coi là một giải pháp thay thế chống lại bệnh sốt rét trong những trường hợp kháng với các loại thuốc khác. WHO khuyến nghị các liệu pháp kết hợp với artemisinin để kiểm soát Plasmodium falciparum ở những khu vực được coi là bệnh dịch.
Đặc điểm chung
Hoa Artemisia annua. Nguồn: Kristian Peters - Fabelfroh 11:40, ngày 16 tháng 9 năm 2007 (UTC)
Xuất hiện
Artemisia annua là loài thân thảo sống hàng năm, cao từ 30-250 cm, có kiến trúc tán lá hình tháp. Nó được hình thành bởi một thân màu xanh lá cây hình trụ và mang thẳng đứng, dày 20-60 mm và một vài nhánh dài từ 30-80 cm.
Lá
Các lá hình hai lá mầm với mép có răng và các đoạn thẳng được bao phủ bởi các trichomes tuyến dày đặc ở cả hai mặt và dài 2,5-5 cm. Những cái thấp hơn là xen kẽ, hình trứng và hình tam giác; vớ nhỏ và có lỗ; những người trên pinatipartidas. Tất cả đều có các trichomes tuyến mang lại tinh chất hình trại.
những bông hoa
Các hoa có đường kính 2-3 mm, màu vàng đậm và được bao phủ bởi nhiều lá bắc, được nhóm lại thành cụm hoa hình thành các chùy cuối. Các hoa trung tâm là hoa lưỡng tính với 5 thùy và 5 nhị, hoa cái bên ngoài có 4 thùy, chứa các trichomes tuyến.
Trái cây
Quả là một quả hình trứng hoặc quả khô, đường kính 0,5-0,8 mm với màu hơi xám. Bên trong có những hạt hình cầu nhỏ, màu nâu nhạt.
Thành phần hóa học
Phân tích hóa học hàng năm của ngải cứu đã giúp xác định sự hiện diện của các chất phytochemical dễ bay hơi và không bay hơi. Trong số các loại tinh dầu dễ bay hơi, loại không bay hơi bao gồm coumarin, flavonoid và sesquiterpenes.
Sesquiterpenes bao gồm nguyên tắc hoạt động là axit artemisinic và artemisinin, một sesquiterpene lacton được công nhận về hoạt tính chống sốt rét. Các hợp chất khác liên quan đến artemisinin là coumarin, hợp chất béo, thơm và phenolic, flavonoid và lipid, làm tăng tác dụng chống sốt rét của loài này.
Phân loại học
- Vương quốc: Plantae
- Bộ phận: Magnoliophyta
- Lớp: Magnoliopsida
- Đặt hàng: Asterales
- Họ: Asteraceae
- Phân họ: Asteroideae
- Bộ tộc: Anthemideae
- Subtribe: Artemisiinae
- Chi: Artemisia
- Loài: Artemisia annua L.
Từ nguyên
- Artemisia: tên chi bắt nguồn từ tên Hy Lạp của nữ thần Diana «Artρτεμις» dịch là Artemis. Theo cách tương tự, anh ta có quan hệ họ hàng với Artemis II của Caria «Artρτεμισία», thống đốc của đế chế Medean và Ba Tư cổ đại, một chuyên gia về y học và thực vật học.
- annua: tính từ cụ thể bắt nguồn từ tiếng Latinh "hàng năm", dùng để chỉ chu kỳ sinh dưỡng hàng năm của cây.
Từ đồng nghĩa
- Artemisia annua f. macrocephala Pamp.
- Artemisia chamomilla C. Winkl.
- A. exilis Fisch. cũ DC.
- A. hyrcana Spreng.
- Artemisia mậnosa Fisch. cũ Bess.
- Artemisia Steritii CB Cl.
- A. suaveolens Fisch.
- A. wadei Edgew.
Lá của Artemisia annua. Nguồn: Raffi Kojian
Nơi sống và phân bố
Loài A rtemisia annua là một loài cây thân thảo có nguồn gốc từ tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Hiện nay, nó được phân bố rộng rãi ở Trung và Nam Âu, nó cũng được nhập tịch ở Bắc Mỹ.
Môi trường sống tự nhiên của chúng nằm trong các khu vực thô sơ, đá, đất xen kẽ hoặc đất bỏ hoang, ven đường, đường cao tốc, vách đá đường sắt hoặc bãi rác. Nó phát triển trên đất có nguồn gốc vôi hoặc silic, có độ phì nhiêu trung bình và độ pH trung tính, ở độ cao thấp hơn từ 2.000 đến 3.500 mét trên mực nước biển. Nó là một loài thực vật phụ sinh.
Tính chất
Artemisia annua là một loài cây được biết đến từ thời cổ đại với nhiều đặc tính chữa bệnh với tác dụng tẩy giun sán, giảm co thắt và tẩy giun. Tại nơi xuất xứ của nó, nó được công nhận là một phương thuốc tự nhiên hiệu quả để điều trị bệnh trĩ và tác dụng chữa bệnh sốt rét.
Gần đây, các nghiên cứu y tế do chính phủ Trung Quốc tài trợ đã xác nhận khả năng chống sốt rét cao của Artemisia annua. Có thể xác định được nguyên tắc hoạt động artemisinin, là chất thay thế có tác dụng chống co thắt đối với kháng sinh và quinin.
Ở trạng thái hoang dã, Artemisia annua chứa tối đa 0,5% artemisinin. Tuy nhiên, các thử nghiệm di truyền thực nghiệm đã cho phép tăng hàm lượng của nó lên 1,1-1,4%, kết hợp với một sinh khối dồi dào, tạo thành một sự thay thế về giá trị vệ sinh và kinh tế.
Mặt khác, việc sử dụng tự nhiên của loài này đã cho phép xác định một số hợp chất hóa học có tác dụng chống oxy hóa chống ung thư hoặc kháng sinh chống viêm da. Xem lại lá ngải cứu hàng năm được dùng làm thuốc kháng khuẩn để chữa các bệnh do vi khuẩn trên da.
Ngoài ra, tác dụng khử trùng của nó được biết là ngăn ngừa và trì hoãn sự phát triển của vi khuẩn. Nó cũng có tác dụng tiêu hóa và tiêu diệt, vì nó điều chỉnh việc trục xuất các chất khí trong ruột; tương tự như vậy, nó hoạt động như một máy ly tâm làm giảm nhiệt độ cơ thể.
Hạt giống Artemisia annua. Nguồn: Steve Hurst
Cách sử dụng
Trong y học cổ truyền, nó được sử dụng như một dịch truyền hoặc các đặc tính của lá khô được sử dụng.
- Dịch truyền: hai thìa hoa cho vào một lít nước đun sôi rồi để yên. Dịch truyền này được sử dụng để hạ sốt, chữa cảm lạnh, giảm rối loạn dạ dày và gan, và chữa lành vết loét.
- Lá khô: vài chiếc lá bên trong đệm vải gần gối cho phép bạn dễ ngủ. Một hoặc hai tấm trên giày làm mới đôi chân và giảm mệt mỏi.
- Cành: một chùm lá khô treo ở bếp, chuồng trại hoặc vườn nhà để xua đuổi sâu bọ, ruồi nhặng.
- Mật nhân: tinh dầu chiết xuất từ lá được dùng để tạo hương vị cho thức ăn, đồ ăn vặt, đồ ngọt hoặc đồ uống có cồn.
Quan tâm
Yêu cầu
Việc trồng ngải cứu hàng năm đòi hỏi đất mùn được phơi nắng đầy đủ, thậm chí nó còn thích nghi với đất có kết cấu đất sét. Là loại cây không yêu cầu về thành phần dinh dưỡng trong đất, tuy cần đất ẩm nhưng thoát nước tốt.
Nói chung, chu kỳ sinh dưỡng hàng năm của nó bắt đầu vào mùa xuân và mùa hè, và ra hoa vào cuối mùa hè. Trong điều kiện hoang dã, nó có khả năng chịu đựng ở nhiệt độ thấp vừa phải, tuy nhiên, nó có xu hướng khô hoàn toàn khi bắt đầu có sương giá.
Quang kỳ là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản xuất của cây trồng này. Quang kỳ ngắn hơn 12 giờ ánh sáng làm giảm chu kỳ sinh dưỡng và gây ra hoa, điều này hạn chế việc trồng trọt ở các vùng nhiệt đới.
Cây con của Artemisia annua. Nguồn: Ton Rulkens
Văn hóa
Việc trồng ngải cứu hàng năm được thực hiện bằng cách gieo hạt. Việc trồng được thiết lập trong các luống gieo hạt trong điều kiện nhà kính, sử dụng giá thể phổ biến và duy trì các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm không đổi.
Khi cây con đạt chiều cao 10 cm hoặc có 2-4 lá thật thì đem cấy ra đất trống. Mật độ tối ưu được khuyến nghị cho cây trồng thương mại là 6 cây trên một mét vuông.
Việc bón phân hữu cơ hoặc phân hóa học giàu lân và kali góp phần làm tăng tán lá cho cây trồng. Tương tự như vậy, việc tưới nước thường xuyên có lợi cho năng suất của cây cũng như kiểm soát cỏ dại trong giai đoạn tăng trưởng.
Cây ngải cứu hàng năm phát triển tốt nhất ở những loại đất giàu chất dinh dưỡng ngoài đồng, nó ưa đất ẩm nên cần tưới nước thường xuyên. Cây con mới cấy và cây trồng trong chậu ít cần tưới nước thường xuyên hơn do bộ rễ chặt chẽ hơn.
Mùa gặt
Việc thu hoạch được xác định bởi hàm lượng artemisinin mà cây có thể chứa tại thời điểm thu hoạch. Hàm lượng sesquiterpene này cao nhất trong các mô thực vật trùng với thời điểm bắt đầu ra hoa, là thời điểm thu hoạch.
Thu hoạch gồm thu lá và ngọn của cây, đem phơi nơi râm mát. Nên để lại phần thân bán gỗ trên ruộng để cây mọc lại sau vài ngày.
Trồng Artemisia annua. Nguồn: Jorge Ferreira
Bệnh dịch và bệnh tật
Có rất ít báo cáo về sâu bệnh hoặc bệnh có tầm quan trọng kinh tế thu được trong việc trồng Artemisia annua. Tại Hoa Kỳ, loài gây hại duy nhất được báo cáo là ấu trùng lepidopteran, mặc dù không gây thiệt hại đáng kể cho cây trồng.
Nuôi cấy thử nghiệm được thực hiện ở Tasmania (Úc) với mật độ trồng cao, người ta đã quan sát thấy sự xuất hiện của bệnh gọi là Sclerotinia. Độ ẩm tương đối cao của môi trường tạo điều kiện cho nấm Sclerotinia sclerotiorum phát triển, tác nhân gây hoại tử phần đáy của thân cây.
Sự hiện diện của rệp trong chồi hoặc chồi của cây trồng thúc đẩy sự xuất hiện của một số loại virus trong cây. Các triệu chứng chính là lá bị teo và dị dạng, biện pháp phòng trừ tốt nhất là loại bỏ cây bệnh và thực hiện luân canh hai năm một lần.
Người giới thiệu
- Acosta de la Luz, L., & Castro Armas, R. (2010). Trồng trọt, thu hoạch và chế biến sau thu hoạch của Artemisia annua L. Revista Cubana de Plantas Medicinales, 15 (2), 75-95.
- Cây Ngải Trung Quốc - Cây Ngải Ngải - Artemisa Annua (2019) Cho Khu Vườn Của Tôi. Đã khôi phục tại: paramijardin.com
- Artemisia annua (2019) Wikipedia, Bách khoa toàn thư miễn phí. Đã khôi phục tại: wikipedia.org
- Artemisia annua L. (2019) Danh mục sự sống: Danh sách kiểm tra hàng năm 2019. Đã khôi phục tại: catalogueoflife.org
- Bissanti, Guido (2019) Artemisia annua. Một thế giới bền vững về mặt sinh thái. Đã khôi phục trong: antropocene.it
- Cafferata, LF & Jeandupeux, R. (2007). Dung môi chiết xuất artemisinin và các chất chuyển hóa khác từ Artemisia annua L. wild. SeDiCi. Dịch vụ Truyền bá Trí tuệ Sáng tạo. 108 tr.
- Guerrero, L. (2002). Artemisia Annua: quan điểm mới trong điều trị sốt rét. Natura Medicatrix: Tạp chí Y khoa về Nghiên cứu và Phổ biến Thuốc Thay thế, 20 (4), 180-184.