- Các nhánh chính của luật xã hội
- Luật lao động
- Quyền được an sinh xã hội
- Luật nhập cư
- Luật nông nghiệp
- Người giới thiệu
Các nhánh của luật xã hội là quyền làm việc, quyền được đảm bảo an sinh xã hội, luật nhập cư và luật nông nghiệp. Luật xã hội là một khái niệm pháp luật thống nhất, thay thế sự phân chia cổ điển của luật công và luật tư.
Thuật ngữ này đã được sử dụng để chỉ các lĩnh vực pháp lý giữa các chủ thể công và tư, chẳng hạn như luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, luật lao động và an sinh xã hội, hoặc như một khái niệm thống nhất cho tất cả luật dựa trên hiệp hội. .
Để phản ứng lại nền luật học cổ điển của thế kỷ 19, các luật sư đặt câu hỏi về sự phân chia cứng nhắc giữa luật tư và luật công.
Nhà triết học người Đức Otto von Gierke đã làm việc để phát triển một lịch sử và lý thuyết hoàn chỉnh về Quy luật xã hội (Soziales Recht). Các nguyên tắc chính trong công việc của Gierke đã được Frederick W. Maitland thông qua và đưa vào ngành luật học tiếng Anh.
Tại Pháp, Lion Duguit đã phát triển khái niệm về quy luật xã hội trong cuốn sách năm 1911 của ông, Le droit social, le droit Individualuel et laformation de l'état. Một sợi dây chung là sự gắn bó với công bằng xã hội trong một xã hội dân chủ.
Điều này đã trở thành kim chỉ nam trung tâm cho tư duy của các nhà hiện thực pháp lý Mỹ trong thời đại Lochner đầu thế kỷ 20.
Lấy cảm hứng từ các định đề về công lý, quyền là trật tự thể chế thiết lập hành vi của con người trong xã hội. Vì vậy, nó là một tập hợp các quy định nhằm giải quyết các mâu thuẫn xã hội. Do đó tầm quan trọng của nó.
Các nhánh chính của luật xã hội
Luật xã hội được chia thành bốn nhánh chính có tầm quan trọng lớn trên toàn thế giới.
Luật lao động
Luật lao động can thiệp vào mối quan hệ giữa người lao động, người sử dụng lao động, công đoàn và chính phủ.
Luật lao động tập thể đề cập đến mối quan hệ ba bên giữa người lao động, người sử dụng lao động và công đoàn. Luật lao động cá nhân đề cập đến quyền của người lao động tại nơi làm việc và thông qua hợp đồng lao động.
Tiêu chuẩn việc làm là các tiêu chuẩn xã hội (trong một số trường hợp cũng là tiêu chuẩn kỹ thuật) về các điều kiện tối thiểu được xã hội chấp nhận mà theo đó người lao động hoặc nhà thầu có thể làm việc. Các cơ quan chính phủ thực thi luật lao động (lập pháp, quản lý hoặc tư pháp).
Luật lao động xuất hiện song song với cuộc Cách mạng Công nghiệp, khi mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động chuyển từ nghiên cứu sản xuất quy mô nhỏ sang các nhà máy quy mô lớn.
Người lao động đang tìm kiếm các điều kiện tốt hơn và quyền tham gia (hoặc tránh gia nhập) công đoàn, trong khi người sử dụng lao động đang tìm kiếm một lực lượng lao động dễ đoán hơn, linh hoạt hơn và ít tốn kém hơn.
Do đó, nhà nước của luật lao động ở bất kỳ thời điểm nào cũng là sản phẩm và thành phần của các cuộc đấu tranh giữa các lực lượng xã hội khác nhau.
Vì Anh là quốc gia đầu tiên công nghiệp hóa, nên nước này cũng là quốc gia đầu tiên phải đối mặt với những hậu quả thường xuyên nghiêm trọng của Cách mạng Công nghiệp trong một môi trường kinh tế ít được điều tiết hơn.
Trong suốt cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, các nền tảng của luật lao động hiện đại chậm được thiết lập, vì một số khía cạnh nghiêm trọng nhất của điều kiện lao động đã được cải thiện thông qua luật pháp.
Điều này đạt được một phần lớn nhờ áp lực phối hợp từ các nhà cải cách xã hội, đặc biệt là Anthony Ashley-Cooper.
Quyền được an sinh xã hội
Quyền được an sinh xã hội đảm bảo cho mọi người, không phân biệt tuổi tác hoặc khả năng lao động, các phương tiện cần thiết để có được các nhu cầu và dịch vụ cơ bản.
Một số nguyên tắc cơ bản của quyền con người là cơ bản để bảo đảm quyền được an sinh xã hội:
- Tính toàn vẹn: an sinh xã hội bao hàm tất cả các rủi ro vốn có do mất phương tiện sinh hoạt vì những lý do ngoài tầm kiểm soát của một người.
- Tính linh hoạt: tuổi nghỉ hưu cần linh hoạt, tùy thuộc vào ngành nghề thực hiện và khả năng lao động của người cao tuổi, có tính đến các yếu tố nhân khẩu học, kinh tế và xã hội.
- Không phân biệt đối xử : An sinh xã hội phải được cung cấp mà không có sự phân biệt đối xử (theo ý định hoặc hiệu quả) dựa trên tình trạng sức khỏe, chủng tộc, dân tộc, tuổi tác, giới tính, tình dục, khuyết tật, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc quốc gia, thu nhập hoặc địa vị xã hội.
Luật nhập cư
Luật nhập cư đề cập đến các chính sách của chính phủ quốc gia kiểm soát việc nhập cư và trục xuất người dân cũng như các vấn đề khác như quyền công dân.
Luật nhập cư khác nhau giữa các quốc gia, cũng như tùy theo môi trường chính trị của thời đó, vì tình cảm có thể chuyển từ bao trùm rộng rãi sang loại trừ sâu sắc những người nhập cư mới.
Luật nhập cư liên quan đến công dân của một quốc gia được điều chỉnh bởi luật quốc tế. Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị quy định rằng tất cả các quốc gia sẽ cho phép công dân của mình nhập cảnh.
Một số quốc gia có thể duy trì luật pháp khá nghiêm ngặt quy định cả quyền nhập cảnh và quyền trong nước, chẳng hạn như thời gian lưu trú và quyền tham gia vào chính phủ.
Hầu hết các quốc gia đều có luật chỉ định một quá trình nhập tịch, theo đó người nước ngoài có thể trở thành công dân.
Luật nông nghiệp
Luật nông nghiệp là luật điều chỉnh việc chiếm hữu và khai thác đất nông nghiệp. Vì tất cả các nền kinh tế cũ đều là nông nghiệp áp đảo, các giai cấp thống trị luôn có những động lực đáng kể để thiết lập các quy tắc như vậy.
Luật nông nghiệp (từ tiếng Latinh ager, có nghĩa là "đất đai") là luật của người La Mã quy định việc phân chia đất công, hay còn gọi là ager publicus.
Nhiều nỗ lực khác nhau nhằm cải cách luật lệ nông nghiệp là một phần của cuộc đấu tranh chính trị - xã hội giữa quý tộc và thường dân được gọi là Xung đột trật tự.
Có ba loại đất ở La Mã cổ đại: đất tư nhân, đồng cỏ chung và đất công. Đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, những chủ đất giàu có đã bắt đầu thống trị các khu vực nông nghiệp của đế chế bằng cách "thuê" những vùng đất công rộng lớn và coi đó như là của tư nhân.
Từ đầu cho đến nay, luật nông nghiệp vẫn có hiệu lực như một trong những nhánh quan trọng nhất của luật xã hội.
Người giới thiệu
- Otto von Gierke, Vai trò xã hội của Luật tư (2016) do E McGaughey dịch và giới thiệu, nguyên tác là Die soziale Aufgabe des Privatrechts (Berlin 1889).
- G Gurvitch, 'Vấn đề của quy luật xã hội' (1941) 52 (1) Đạo đức 17.
- Weissbrodt, David S; de la Vega, Connie (2007). Luật nhân quyền quốc tế: phần mở đầu. Nhà xuất bản Đại học Pennsylvania. p. 130. ISBN 978-0-8122-4032-0.
- Đúng, Emberson. Luật Nhập cư thuộc địa. Buffalo: William S Hein & Co., Inc., 2003. Bản in.
- Barthold Georg Niebuhr, Lịch sử thành Rome, tập. ii, tr. 166 ff, Bài giảng về Lịch sử thành Rome, tr. 89 ff, ed. Schmitz (1848).