- Lịch sử
- Bối cảnh lịch sử
- Laissez-faire
- Sự thịnh vượng của cac quôc gia
- Thế kỷ XIX
- Các phong trào lao động và chủ nghĩa tự do
- Khủng hoảng 29 và Thỏa thuận mới
- Chiến tranh lạnh
- nét đặc trưng
- Thị trường tự điều chỉnh
- Cuộc thi
- Sở hữu tư nhân
- Nhân vật chính
- Adam Smith (1723-1790)
- David Ricardo (1772-1823)
- John Maynard Keynes (1883-1946)
- Friedrich Von Hayek (1899-1992)
- Người giới thiệu
Các l iberalismo kinh tế là một học thuyết mà xuất hiện ở Anh vào thế kỷ thứ mười tám. Khía cạnh chính trị của chủ nghĩa tự do có nguồn gốc từ việc tìm kiếm các quyền chống lại các tầng lớp trên của Chế độ cũ. Trong kinh tế học, nhà lý thuyết hàng đầu là Adam Smith.
Cách mạng Công nghiệp đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội của nước Anh lúc bấy giờ, khiến giai cấp tư sản nắm được nhiều quyền lực. Điều này va chạm với những đặc quyền vẫn được hưởng bởi các tầng lớp thượng lưu và nói chung là nhà nước do nhà vua đại diện.
Adam Smith
Mặc dù đã có một số tiền lệ lý thuyết, nhưng chủ nghĩa tự do là học thuyết được củng cố nhiều nhất. Nó nói rằng không nên có quy định của nhà nước sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Tác nhân quan trọng nhất là cá nhân và, bắt đầu từ những đặc điểm mà những người theo chủ nghĩa tự do gán cho anh ta, nỗ lực kiếm tiền của anh ta sẽ làm cho toàn xã hội được lợi.
Mặc dù thực tế là theo thời gian, chủ nghĩa tự do kinh tế đã có nhiều lần có ảnh hưởng hơn những thời điểm khác, nhưng trong thế kỷ 20 và 21, chủ nghĩa tự do kinh tế đã trở thành lý thuyết kinh tế chính. Tuy nhiên, một số tác giả chỉ ra rằng, thực sự bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ trước, một khái niệm mới đã xuất hiện: chủ nghĩa tự do tân tự do.
Lịch sử
Nguồn gốc của chủ nghĩa tự do kinh tế là vào thế kỷ 18. Theo các định đề của chủ nghĩa tự do, nó đã cố gắng chấm dứt nhiều đặc quyền mà giới quý tộc, tăng lữ và tất nhiên, chế độ quân chủ vẫn được hưởng.
Mặt khác, học thuyết còn phản đối một trong những hệ tư tưởng kinh tế đang thịnh hành lúc bấy giờ: chủ nghĩa trọng thương. Điều này có lợi cho sự can thiệp của Nhà nước vào các chủ thể kinh tế.
Ngay trong thế kỷ XVII, một số triết gia đã xuất hiện những tư tưởng gần với chủ nghĩa tự do này. John Locke thường được coi là một trong những ảnh hưởng của các tác giả sau này, những người đã định nghĩa học thuyết.
Bối cảnh lịch sử
Như đã nói ở trên, nhà nước là cơ quan quản lý tất cả các quyết định và cấu trúc kinh tế thời bấy giờ. Đối mặt với điều này, và vào giữa cuộc Cách mạng Công nghiệp, đã xuất hiện những nhà tư tưởng đề xuất điều ngược lại.
Trong những năm đầu của Cách mạng, những người theo chủ nghĩa tự do kinh tế đã tinh chỉnh ý tưởng của họ về cách xây dựng một mô hình tương tự như xã hội đang được tạo ra. Do đó, quyền tự do cá nhân ngày càng chiếm ưu thế, với một Nghị viện đã cố gắng giảm bớt quyền lực của quân chủ.
Vào thời điểm đó, với tự do chính trị hơn phần còn lại của châu Âu, người Anh bắt đầu quan tâm đến kinh tế và tăng trưởng cá nhân.
Laissez-faire
Chủ nghĩa tự do kinh tế bắt đầu từ ý tưởng rằng cá nhân luôn tìm kiếm lợi ích cho riêng mình. Tìm kiếm này, cùng với tìm kiếm của phần còn lại của dân số, làm cho xã hội cuối cùng được hưởng lợi. Do đó, Nhà nước không được can thiệp vào các quan hệ kinh tế hoặc trong mọi trường hợp, sự can thiệp này là tối thiểu.
Cụm từ dùng để tóm tắt giáo lý là laissez faire, giấy thông hành, trong tiếng Pháp có nghĩa là buông bỏ, buông bỏ. Trên thực tế, phương châm này đã được các Nhà Vật lý sử dụng, nhưng chủ nghĩa tự do cuối cùng đã chiếm đoạt nó.
Với laissez faire, thị trường không nên có bất kỳ quy định nào ngoài những gì các cá nhân quyết định. Tương tự, nó ủng hộ sự tự do hoàn toàn của người lao động và người sử dụng lao động trong việc đạt được các thỏa thuận hợp đồng, mà Nhà nước không cần phải thiết lập các quy định để bảo vệ bất kỳ thỏa thuận nào.
Sự thịnh vượng của cac quôc gia
Tác phẩm xuất bản năm 1776 của Adam Smith, "Sự giàu có của các quốc gia", được coi là sự khởi đầu của chủ nghĩa tự do kinh tế. Ảnh hưởng của nó đến mức nó thiết lập thời điểm mà nó bắt đầu nói đến các nhà kinh tế học cổ điển.
Smith, giống như các nhà kinh tế học khác trước ông, nhằm nghiên cứu cách tốt nhất để xã hội trở nên giàu có và cùng với đó là nhà nước. Tuy nhiên, không giống như các trào lưu khác, ông đi đến kết luận rằng chính cá nhân mới là người có quyền kiểm soát các mối quan hệ kinh tế.
Đối với ông, làm giàu nhà nước tiếp sau làm giàu cho từng cá nhân, như ông nói: "Khi bạn làm việc cho bản thân, bạn phục vụ xã hội hiệu quả hơn là khi bạn làm việc vì lợi ích xã hội."
Adam Smith coi sự can thiệp của các quyền lực của Nhà nước vào lĩnh vực kinh tế là vô ích, và thậm chí là ác hại. Các khía cạnh như cung hoặc cầu là những khía cạnh điều chỉnh các hoạt động thương mại, không có tiêu chuẩn cao hơn.
Để giải thích nó, ông đã đưa ra phép ẩn dụ về bàn tay vô hình. Theo ông, những ích kỷ cá nhân nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa có thể được dẫn dắt bởi bàn tay vô hình của thị trường nhằm tạo lợi ích cho xã hội nói chung.
Thế kỷ XIX
Sự gia tăng sản xuất và sự xuất hiện của giai cấp tư sản công nghiệp dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ trên thị trường thế giới. Chủ nghĩa tự do, với ý tưởng về sự không can thiệp của nhà nước, đã giành được sự ủng hộ của các thương gia, các nhà đầu tư và tất nhiên, các chủ sở hữu của các ngành công nghiệp.
Các chính phủ buộc phải ban hành luật kinh tế tự do, xóa bỏ thuế quan và cho phép hàng hóa lưu thông tự do.
Cho đến cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa tự do kinh tế là hệ thống chiếm ưu thế hơn tất cả các hệ thống khác, và những kết quả ban đầu của nó đã thuyết phục nhiều người. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ này, sự suy thoái của nền kinh tế bắt đầu bộc lộ một số điểm yếu của nó.
Dễ thấy nhất là việc tạo ra bất bình đẳng trong xã hội. Các tác giả như Charles Dickens đã chỉ ra một số tác động của việc bãi bỏ quy định hoàn toàn, với các lớp dân số rơi vào cảnh nghèo đói hoặc trẻ em phải làm việc từ khi còn rất nhỏ.
Những tình huống này khiến các nhà cầm quyền, bắt đầu từ những người bảo thủ, đưa ra một số giới hạn đối với các hoạt động kinh tế. Một số nhà lý thuyết của cái gọi là Chủ nghĩa Tự do Mới bắt đầu yêu cầu một số quy định có thể sửa chữa những tác động tiêu cực.
Các phong trào lao động và chủ nghĩa tự do
Lúc đầu, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản không mâu thuẫn với nhau. Sự tồn tại của kẻ thù chung là giới quý tộc đã khiến họ liên minh chống lại anh ta.
Điều này đã thay đổi khi chủ nghĩa tự do kinh tế trở thành học thuyết thống trị. Việc thiếu các quyền của người lao động đã dẫn đến sự xuất hiện của các phong trào xã hội chủ nghĩa đòi bình đẳng xã hội lớn hơn.
Theo cách này, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đã trở thành những hệ tư tưởng thù địch. Thế kỷ 20 là bối cảnh của cuộc đấu tranh giữa các học thuyết này.
Khủng hoảng 29 và Thỏa thuận mới
Cuộc Đại suy thoái kinh tế năm 1929 không chính xác giúp làm cho chủ nghĩa tự do kinh tế trở nên phổ biến hơn. Trên thực tế, một xu hướng đã tăng lên đòi hỏi sự kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế nhiều hơn để sự thái quá gây ra khủng hoảng sẽ không xảy ra nữa.
Con đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó nằm trong tầm tay của một nền kinh tế, mặc dù nó có nguồn gốc tự do, nhưng đã có được một phần công thức của chủ nghĩa xã hội.
John Maynard Keynes, nhà kinh tế học có ảnh hưởng nhất thời bấy giờ, là tác giả lý thuyết của cái gọi là Thỏa thuận Mới. Trong đó, đầu tư công được sử dụng như một vũ khí chính để phục hồi tăng trưởng kinh tế.
Chiến tranh lạnh
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã làm phát sinh một thế giới lưỡng cực. Chủ nghĩa tự do-chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản cạnh tranh cả về chính trị và kinh tế.
Trong hầu hết những năm được gọi là Chiến tranh Lạnh, hầu hết các quốc gia (trừ các nước thuộc khối cộng sản) đã phát triển nền kinh tế tự do, nhưng với những sắc thái nhất định.
Theo nhiều nhà sử học, lo sợ về sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, đặc biệt là ở châu Âu, nhiều quốc gia đã chọn thành lập cái gọi là Nhà nước phúc lợi. Những công ty này, với hoạt động dựa trên chủ nghĩa tự do kinh tế, đã thiết lập các dịch vụ công gần với các hệ thống cố định hơn.
Y tế, giáo dục hoặc bảo vệ người thất nghiệp khỏi Nhà nước, đã phá vỡ những ý tưởng chính thống nhất của chủ nghĩa tự do kinh tế.
Tình hình ít nhiều vẫn như cũ bất chấp sức mạnh của các trường phái tự do như Áo. Sự cân bằng chỉ bắt đầu bị phá vỡ từ những năm 1970. Trong thập kỷ đó, các nhà lãnh đạo như Margaret Thatcher và Ronald Reagan bắt đầu cái gọi là Cách mạng Bảo thủ.
Tuy nhiên, nhiều tác giả cho rằng hệ thống kinh tế sẽ thịnh hành từ đó trở đi là chủ nghĩa tân tự do, một biến thể của chủ nghĩa tự do ban đầu.
nét đặc trưng
Chủ nghĩa tự do kinh tế bắt đầu từ một ý tưởng rất cụ thể về bản chất con người. Đối với những người theo học thuyết này, cá nhân chủ yếu tìm kiếm sự sung túc của bản thân. Theo những người theo chủ nghĩa tự do, con người rất ích kỷ. phúc lợi của những người khác là rất thứ yếu.
Đó là một triết lý rất cá nhân chủ nghĩa, mặc dù theo lý thuyết của nó, việc tìm kiếm sự giàu có của cá nhân nên hướng đến lợi ích chung.
Thị trường tự điều chỉnh
Một trong những điểm học thuyết chính của nó là thị trường có thể hoạt động mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài.
Như vậy, quy luật cung cầu là một trong những khía cạnh có giá trị nhất để hình thành giá thành sản phẩm. Tương tự như vậy, một số nhà lý thuyết chỉ ra rằng giá trị được tạo ra bởi sự kết hợp giữa chi phí lao động và định giá của người tiêu dùng.
Bằng cách không cần quy định, chủ nghĩa tự do đưa nhà nước ra khỏi phương trình. Điều này sẽ chỉ có vị trí trong xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc an ninh quốc gia.
Cuộc thi
Cạnh tranh, dù là giữa các cá nhân hay giữa các công ty, là một trong những trục mà nền kinh tế vận động theo lý thuyết này. Nó phải được thiết lập mà không có bất kỳ loại biến dạng quy chuẩn nào, một cách tự do và toàn bộ.
Kết quả phải là lợi ích của người tiêu dùng. Về lý thuyết, giá sẽ giảm và chất lượng sẽ tăng lên, vì các công ty sẽ đấu tranh để bán được nhiều hơn.
Đối với cá nhân, năng lực đó sẽ được chuyển giao cho người lao động. Chỉ những người phù hợp nhất mới có thể nhận được những công việc tốt nhất.
Sở hữu tư nhân
Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa tự do. Nhà nước không được sở hữu bất kỳ công ty nào dưới danh nghĩa của mình.
Nó cũng không thể là chủ sở hữu của các nguyên liệu thô trong lãnh thổ. Tất cả điều này phải được giao cho các công ty tư nhân.
Nhân vật chính
Adam Smith (1723-1790)
Adam Smith người Anh được coi là một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa tự do kinh tế. Công việc chính của ông là "Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân của sự giàu có của các quốc gia", thường được gọi là "Sự giàu có của các quốc gia".
Trong cuốn sách này, ông đã thiết lập một số nền tảng của học thuyết tự do. Đầu tiên, ông tuyên bố rằng các thị trường do các bang điều tiết kém hiệu quả hơn các thị trường dựa trên sự cạnh tranh tư nhân. Do đó, ông ủng hộ việc loại bỏ thuế quan, hầu hết các loại thuế và các loại quy định khác.
Smith đã nghiên cứu sự phân phối của cải, nhận thấy rằng càng buôn bán nhiều thì thu nhập của công dân càng tăng.
Một trong những đóng góp được biết đến nhiều nhất của ông là khái niệm "bàn tay vô hình". Đó là cách gọi lực lượng mà việc tìm kiếm sự giàu có của từng cá nhân cuối cùng đã có tác động đến một xã hội giàu có hơn.
David Ricardo (1772-1823)
Các nghiên cứu của ông tập trung vào cách xác lập giá trị của tiền lương, tiền thuê hoặc tài sản. Tác phẩm quan trọng nhất của ông có tựa đề "Các nguyên tắc kinh tế chính trị và thuế khóa."
Trong đó, ông nêu ra các vấn đề như định giá xã hội, tại sao giá thuê đất tăng và lợi thế của thương mại tự do.
Ông được coi là một trong những cha đẻ của kinh tế học vĩ mô nhờ những phân tích về mối quan hệ giữa tiền lương và lợi ích. Tương tự, ông là người tiên phong cho quy luật lợi nhuận giảm dần.
Sự đóng góp của ông, đặc biệt là niềm tin của ông rằng công nhân sẽ khó vượt quá mức lương đủ sống, đã khiến ông nằm trong số được gọi là "những người bi quan". Trên thực tế, chính Karl Marx đã thu nhận một phần ảnh hưởng của mình.
John Maynard Keynes (1883-1946)
Mặc dù không nằm trong số các nhà lý thuyết chính thống hơn của chủ nghĩa tự do kinh tế, công trình của Keynes có tầm quan trọng lớn trong thế kỷ 20. Bắt đầu từ học thuyết tương tự, ông kết luận rằng hệ thống tư bản không có khả năng đưa ra tình trạng toàn dụng.
Các tác phẩm của ông đã giúp vượt qua cuộc Đại suy thoái. Để làm được điều này, Nhà nước kích thích nền kinh tế bằng cách bơm tiền công vào để kích cầu trong nước.
Friedrich Von Hayek (1899-1992)
Ông là một phần của cái gọi là Trường phái Tự do của Áo. Ông là một trong những nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất trong nửa sau thế kỷ 20.
Triết học của ông kết hợp chủ nghĩa tự do kinh tế với tự do cá nhân. Điều này phân biệt nó với chủ nghĩa tân tự do sau này vốn ưa thích các chính phủ mạnh về chính trị.
Sự bảo vệ chủ nghĩa cá nhân này đã khiến ông phải đương đầu với tất cả các loại chủ nghĩa can thiệp, bắt đầu từ chủ nghĩa xã hội cộng sản. Ảnh hưởng của nó là cơ bản cho cuộc Cách mạng Bảo thủ của Thatcher và Reagan, cũng như các chính sách được phát triển ở một số nước châu Âu. .
Người giới thiệu
- Economipedia. Chủ nghĩa tự do kinh tế. Được lấy từecomipedia.com
- Màu abc. Chủ nghĩa tự do kinh tế. Lấy từ abc.com.py
- Muñoz Fernández, Víctor. Chủ nghĩa tự do kinh tế, học thuyết về chủ nghĩa tư bản. Lấy từ redhistoria.com
- Encyclopedia of the Early Modern World. Chủ nghĩa tự do, Kinh tế. Lấy từ encyclopedia.com
- Chất gia nhiệt. Robert L. Adam Smith. Lấy từ britannica.com
- Raico, Ralph. Kinh tế Áo và Chủ nghĩa Tự do Cổ điển. Lấy từ mises.org
- Quản gia, Eamonn. Chủ nghĩa Tự do Cổ điển. Đầu tiên. Được khôi phục từ iea.org.uk
- Gaus, Gerald, Courtland, Shane D. và Schmidtz, David. Chủ nghĩa tự do. Lấy từ plato.stanford.edu