- Tiểu sử
- Những năm đầu
- Eton
- Cambridge
- Bắt đầu sự nghiệp của anh ấy
- Chiến tranh thế giới thứ nhất
- Chiến tranh giữa các
- Chiến tranh thế giới thứ hai
- Tử vong
- Lý thuyết-công việc
- Đóng góp khác
- Vở kịch
- Người giới thiệu
John Maynard Keynes (1883 - 1946) là một nhà kinh tế học, nhà tài chính và nhà báo người Anh. Các lý thuyết của ông đã ảnh hưởng đến tư tưởng kinh tế vĩ mô và kinh tế chính trị trong thế kỷ 20.
Ông là người tạo ra xu hướng kinh tế được gọi là chủ nghĩa Keynes, chống lại tư duy tân cổ điển, trong đó người ta đề xuất rằng thị trường tự do có xu hướng chiếm toàn bộ việc làm của dân số, miễn là nhu cầu tiền lương còn linh hoạt.

Theo Official Portrait, qua Wikimedia Commons
Keynes đề xuất rằng tổng cầu ảnh hưởng đến tổng hoạt động kinh tế và có thể tạo ra các giai đoạn thất nghiệp. Vì lý do này, các quốc gia khuyến nghị nên áp dụng các chính sách tài khóa như một cách để vượt qua suy thoái và suy thoái.
Theo định đề của ông, các chính phủ nên đầu tư vào các công trình công cộng, để thúc đẩy việc làm trong thời kỳ khủng hoảng và do đó tìm cách đưa nền kinh tế trở lại trạng thái cân bằng, bất chấp thực tế là Nhà nước có thể phát sinh thâm hụt ngân sách.
Ý tưởng này được thể hiện trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền bạc, được ông phát triển từ năm 1935 đến năm 1936. Ông tin rằng tiêu dùng tăng, lãi suất giảm và đầu tư công sẽ điều tiết nền kinh tế.
Các phương pháp tiếp cận của ông đã được hầu hết các nền kinh tế lớn của thế giới phương Tây chấp nhận trước năm 1940. Từ ngày này đến năm 1980, lý thuyết của Keynes được đưa vào hầu hết các văn bản kinh tế học trên thế giới.
Ông là người chỉ trích các chính sách kinh tế được áp dụng bởi các quốc gia chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì ông coi như thực tế đã xảy ra, rằng các điều khoản của Hòa bình Paris sẽ dẫn nền kinh tế thế giới đến một cuộc khủng hoảng chung.
Ông cũng quan tâm đến báo chí và là biên tập viên của một số phương tiện truyền thông kinh tế chuyên biệt ở Anh, chẳng hạn như Tạp chí Kinh tế. John Maynard Keynes luôn gắn liền với cuộc sống học tập, đặc biệt là tại Cambridge, trường cũ của ông.
Tiểu sử
Những năm đầu
John Maynard Keynes sinh ra tại Cambridge vào ngày 5 tháng 6 năm 1883. Cha mẹ của ông là John Neville Keynes và Florence Ada Keynes. Chàng trai trẻ là con đầu trong gia đình có ba anh chị em và lớn lên trong một môi trường rất kích thích trí tuệ của anh ta.
Cha của ông là một chính trị gia, triết gia, giáo sư tại Cambridge (1884-1911) và thư ký của cùng một trường đại học (1910 - 1925). Trong khi mẹ cô là một trong những phụ nữ đầu tiên học đại học ở Anh.
Florence Ada Keynes là một nhà sử học, chính trị gia và nhà văn, ủy viên hội đồng đầu tiên của Thành phố Cambridge, nơi bà cũng là một thẩm phán. Ngôi nhà của Keynes rất yêu thương, ông có quan hệ tốt với cả cha mẹ và với các anh trai Margaret (1885) và Geoffrey (1887).
Năm 5 tuổi rưỡi, anh bắt đầu đi học, nhưng sức khỏe yếu khiến anh không thể đi học đều đặn. Mẹ và người giám hộ của anh, Beatrice Mackintosh, phụ trách chăm sóc chàng trai trẻ tại nhà cho đến khi anh nhập học St. Faith vào năm 1892, nơi anh nhanh chóng nổi bật trong số tất cả các bạn cùng lứa tuổi.
Cha mẹ của họ quan tâm đến sở thích của con cái và luôn khuyến khích chúng theo đuổi chúng, giống như cách họ đã tạo ra thói quen đọc và viết ở ba bạn trẻ. Keynes luôn có thiên hướng toán học và giải các phương trình bậc hai khi mới 9 tuổi.
Eton
Cả cha anh và chính John Maynard Keynes đều quyết định rằng lựa chọn tốt nhất cho chàng trai trẻ là học tại Eton, và vì các bài kiểm tra cho Winchester diễn ra cùng lúc nên họ đã chọn lần đầu tiên.
Để chuẩn bị cho kỳ thi đầu vào, Keynes đã có một số gia sư riêng, bao gồm cả nhà toán học Robert Walter Shackle. Neville sẽ cùng con trai dậy học trước bữa sáng.
Vào ngày 5 tháng 7 năm 1897, cả cha mẹ và Keynes đều đi kiểm tra, kéo dài ba ngày. Cuối cùng, vào ngày 12 cùng tháng, họ nhận được một bức điện thông báo rằng Keynes không chỉ được nhận mà còn là học trò thứ 10 của nhà vua, tức là thành tích của anh trong các cuộc đánh giá là một trong những cao nhất. Điều đó đã mang lại cho anh một học bổng cho việc học của mình.
John Maynard Keynes bắt đầu học tại Eton vào ngày 22 tháng 9 năm 1897, sống trong ký túc xá trường đại học với những người trẻ khác cùng thế hệ với ông, một số người đã trở thành bạn suốt đời của ông.
Mặc dù không giỏi thể thao, nhưng do bản tính không lành mạnh của mình, anh ấy đã thích nghi với các hoạt động của Eton và có một cuộc sống năng động ở trường. Keynes là một phần của Nhóm Tranh luận và Hội Shakespeare.
Ngoài ra, trong năm cuối cấp, anh là thành viên của Hội Eton. Trong thời gian học tại trường, anh đã giành được tổng cộng 63 giải thưởng.
Cambridge
Năm 1901 Keynes và cha của ông vẫn chưa quyết định được nơi mà chàng trai trẻ nên đăng ký học đại học. Cuối cùng, họ quyết định rằng Đại học King là nơi thích hợp cho chàng trai trẻ.
Ở đó, John Maynard đã nhận được hai học bổng hàng năm để học Toán và Kinh điển, một học bổng trị giá 60 bảng Anh và một học bổng trị giá 80 bảng Anh. Ngoài ra, anh còn được miễn phí học phí và ký túc xá cho đến khi lấy bằng cử nhân.
Nó bắt đầu vào tháng 10 năm 1902 và nổi bật giống như ở Eton. Mặc dù số lượng sinh viên ít, 150 người, có rất nhiều hoạt động tại King's College.
Keynes tham gia từ năm 1903 trong Hội Conversazione Cambridge, được gọi là Các Sứ đồ. Ông cũng ở trong Nhóm Bloomsbury, Câu lạc bộ Khoa học Đạo đức và Câu lạc bộ Tự do Đại học, từ đó ông tiếp cận quan điểm chính trị của mình và phát triển các tiêu chí của mình về vấn đề này.
Tháng 5 năm 1904, ông nhận bằng Cử nhân Toán học lớp đầu tiên. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục sống quanh trường đại học thêm một thời gian nữa.
Trong khi học để lấy bằng Công chức, ông bắt đầu quan tâm đến kinh tế học với Alfred Marshall, một trong những giáo sư và người tạo ra sự nghiệp này tại Cambridge.
Bắt đầu sự nghiệp của anh ấy
Sau khi lấy bằng Công chức năm 1906, Keynes chấp nhận một vị trí văn thư ở Ấn Độ, lúc đầu ông thích nhưng cuối cùng lại trở nên nhàm chán vào năm 1908 khi ông trở lại Cambridge.
Keynes đảm bảo vị trí giáo sư đại học về lý thuyết xác suất và năm 1909 cũng bắt đầu giảng dạy môn kinh tế học tại King's College.
Cùng năm đó Keynes đã xuất bản bài báo đầu tiên của mình trên Tạp chí Kinh tế về nền kinh tế ở Ấn Độ. Ông cũng thành lập Câu lạc bộ Kinh tế Chính trị.
Từ năm 1911, ông trở thành biên tập viên của Tạp chí Kinh tế, nơi ông có thể thực hiện bản lĩnh làm báo của mình. Năm 1913, Keynes xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình, Tiền tệ và Tài chính của Ấn Độ, cuốn sách được lấy cảm hứng từ những năm ông trải qua trong việc quản lý thuộc địa này của Anh.
Năm đó John Maynard Keynes được bổ nhiệm làm một trong những thành viên của Ủy ban Hoàng gia về Tiền tệ và Tài chính của Ấn Độ, cho đến năm 1914. Ở đó Keynes cho thấy ông có ý thức tốt trong việc áp dụng các lý thuyết kinh tế vào thực tế.
Chiến tranh thế giới thứ nhất
John Maynard Keynes được yêu cầu ở London trước khi chiến tranh bùng nổ với tư cách là một trong những cố vấn kinh tế. Ông khuyến nghị không nên tạm dừng hoạt động rút tiền vàng từ các ngân hàng trước khi hết sức cần thiết, nhằm bảo vệ uy tín của các tổ chức.
Năm 1915, ông chính thức nhận một vị trí trong Bộ Ngân khố, nhiệm vụ của Keynes trong lĩnh vực này là thiết kế các điều khoản cho các khoản tín dụng mà Vương quốc Anh cung cấp cho các đồng minh của mình trong chiến tranh. Ông được phong làm Đồng hành của Dòng tắm vào năm 1917.
Ông giữ vị trí đại diện tài chính của mình cho đến năm 1919, khi Hòa ước Paris được ký kết. Keynes không đồng ý với việc cướp bóc nước Đức, vì ông cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng không thể đảo ngược đến đạo đức của người Đức và nền kinh tế Đức, điều này sau đó sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế của phần còn lại của thế giới.
Không thể tránh khỏi các hiệp ước yêu cầu những khoản thanh toán cắt cổ cho những người thua cuộc, John Maynard Keynes đã từ chức. Sau đó, ông từ chối lời đề nghị 2.000 bảng một năm để trở thành chủ tịch Ngân hàng Thương mại Phương Bắc của Anh, công ty chỉ yêu cầu ông làm việc một buổi sáng mỗi tuần.
Các quan điểm và lý thuyết của ông về các hiệp định kinh tế Paris được thiết lập trong một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Hậu quả Kinh tế của Chiến tranh, được xuất bản bởi Keynes năm 1919.
Chiến tranh giữa các
Ông tiếp tục viết về các vấn đề kinh tế tồn tại ở Anh do hậu quả của chiến tranh và sự điên rồ trong việc lựa chọn các chính sách để chống lại chúng của chính phủ.
Năm 1925, ông kết hôn với Lydia Lopokova, một vũ công người Nga mà ông đã yêu sâu sắc. Mặc dù đã công khai là người đồng tính trong suốt thời niên thiếu, không có tin đồn về giới tính của anh ấy kể từ khi họ kết hôn.
Trong những năm 1920, Keynes đã nghiên cứu mối quan hệ giữa thất nghiệp, tiền bạc và giá cả. Đây là nền tảng của tác phẩm hai tập của ông có tên A Treatise on Money (1930).
Ông tiếp tục là biên tập viên của Tạp chí Kinh tế, và của Nation and Atheneum. Ông đã thành công với tư cách là một nhà đầu tư và đã thu hồi được vốn sau cuộc suy thoái vào năm 29.
Trong thời gian này, ông là một trong những cố vấn kinh tế cho Thủ tướng Anh.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Năm 1940 Keynes xuất bản tác phẩm Làm thế nào để thanh toán cho chiến tranh, nơi ông giải thích cách các nước chiến thắng nên tiến hành như thế nào để tránh một kịch bản lạm phát. Vào tháng 9 năm sau, ông vào Tòa án Giám đốc Ngân hàng Trung ương Anh.
Như một phần thưởng cho những phục vụ của mình, ông đã được phong tước hiệu cao quý do cha truyền con nối vào năm 1942, từ đó trở đi ông sẽ là Nam tước Keynes, người Tilton, thuộc hạt Sussex.
John Maynard Keynes là trưởng phái đoàn Anh tham gia cuộc đàm phán khi chiến thắng của phe đồng minh. Ông cũng là chủ tịch của Ủy ban Ngân hàng Thế giới.
Chính ông là người đã đề xuất thành lập hai định chế, cuối cùng sẽ được gọi là Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Tuy nhiên, các điều khoản của nó đã không được thực thi, với viễn cảnh là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ chiến thắng.
Tử vong
Sau khi chiến tranh kết thúc, Keynes tiếp tục đại diện cho Vương quốc Anh trong các vấn đề quốc tế khá thành công.
Năm 1937, ông lên cơn đau thắt ngực, nhưng sự chăm sóc của vợ ông là Lydia đã giúp ông hồi phục nhanh chóng. Tuy nhiên, sức khỏe của ông lại giảm sút sau áp lực của trách nhiệm và cương vị trước Tổ quốc.
John Maynard Keynes qua đời vào ngày 21 tháng 4 năm 1946 sau một cơn đau tim.
Lý thuyết-công việc
Trong tác phẩm nổi tiếng nhất của mình, Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền, được coi là một trong những cuốn sách có tác động lớn nhất đến nền kinh tế, ông lập luận rằng các quốc gia nên có một chính sách kinh tế tích cực trong các tình huống khủng hoảng.
Nó cho rằng việc giảm lương sẽ không ảnh hưởng đến mức độ thất nghiệp. Ngược lại, Keynes cho rằng sự gia tăng chi tiêu công cộng với việc giảm lãi suất là những gì có thể đưa thị trường trở lại trạng thái cân bằng.
Có nghĩa là, chừng nào tiền tiết kiệm được nhiều hơn đầu tư, trong tình trạng có lãi suất cao, tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên. Trừ khi các chính sách kinh tế can thiệp vào công thức.
Sau Thế chiến thứ nhất, Keynes trở thành gương mặt đại diện cho chủ nghĩa tự do hiện đại.
Ông coi lạm phát vừa phải thích hợp hơn giảm phát. Tuy nhiên, vào cuối Thế chiến II, ông cho rằng, để tránh lạm phát, chi tiêu chiến tranh phải được trang trải bằng việc tăng thuế đánh vào các thuộc địa và tăng tiết kiệm cho tầng lớp lao động.
Đóng góp khác
Ngoài các lý thuyết kinh tế của mình, John Maynard Keynes luôn quan tâm đến báo chí và nghệ thuật. Trên thực tế, anh đã từng tham gia vào các nhóm như Bloomsbury, trong đó những nhân vật như Leonard và Virginia Woolf cũng được tìm thấy.
Ông đảm nhận việc biến Nhà hát Nghệ thuật Cambridge trở thành trung tâm thứ hai về kịch ở Anh, sau London. Và kết quả thật mỹ mãn.

Lopokova và Keynes. Tác giả Walter Benington (1872-1936), qua Wikimedia Commons
Trong thời gian tham gia chính phủ, ông cũng hỗ trợ các tổ chức nghệ thuật khác nhau như Nhà hát Opera Hoàng gia và Công ty Ballet Sadler Wells. Vợ anh, Lydia Lopokova, cũng là một người đam mê nghệ thuật, bản thân là một vũ công chuyên nghiệp người Nga.
Vở kịch
- Tiền tệ và Tài chính Ấn Độ (1913).
- Kinh tế chiến tranh ở Đức (1915).
- Hậu quả kinh tế của hòa bình (1919).
- Một luận thuyết về xác suất (1921).
- Lạm phát tiền tệ như một phương pháp đánh thuế (1922).
- Sửa đổi Hiệp ước (1922).
- Một dấu vết về cải cách tiền tệ (1923).
- Tôi có phải là người theo Chủ nghĩa tự do không? (Năm 1925).
- Sự kết thúc của Laissez-Faire (1926).
- Laissez-Faire và chủ nghĩa cộng sản (1926).
- Một luận về tiền (1930).
- Khả năng kinh tế cho cháu của chúng ta (1930).
- Sự kết thúc của tiêu chuẩn vàng (1931).
- Các tiểu luận trong Thuyết phục (1931).
- Cuộc đại suy thoái năm 1930 (1931).
- Phương tiện để thịnh vượng (1933).
- Thư ngỏ gửi Tổng thống Roosevelt (1933).
- Những bài tiểu luận trong Tiểu sử (1933).
- Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền (1936).
- Lý thuyết chung về việc làm (1937).
- Làm thế nào để thanh toán cho cuộc chiến: Một kế hoạch cấp tiến cho Chancellor of Exchequer (1940).
- Hai hồi ký (1949). Biên tập bởi David Garnett (Trên Carl Melchior và GE Moore).
Người giới thiệu
- En.wikipedia.org. (2018). John Maynard Keynes. . Lấy từ: en.wikipedia.org.
- Chà, M. (2007). The Little Larousse Illustrated Encyclopedic Dictionary 2007. Ấn bản thứ 13. Bogotá (Colombia): Máy in Colombiana, tr. 1446.
- Bách khoa toàn thư Britannica. (2018). John Maynard Keynes - Tiểu sử, Lý thuyết, Kinh tế, Sách và Sự kiện. . Lấy từ: britannica.com.
- Moggridge, D. (1995). Maynard Keynes: Tiểu sử của một nhà kinh tế. Luân Đôn: Routledge, trang 1-100.
- Gumus, E. (2012). TỪ KHÓA LIFELONG LIBERAL JOHN MAYNARD: MỘT SỐ ĐIỂM NỔI BẬT TỪ CUỘC SỐNG CỦA MÌNH. Giấy MPRA. . Lấy từ: mpra.ub.uni-muenchen.de.
- Felix, D. (1999). Keynes: A Critical Life (Những đóng góp trong kinh tế học và lịch sử kinh tế, số 208). Greenwood Press, trang 1-49.
