- Đặc điểm cơ bản của bài thơ
- 1- Chúng thường nhịp nhàng
- Làm cho việc tuyên bố chung dễ dàng hơn và nhấn mạnh tính chất tập thể của thơ.
- 2- Chúng rất khó dịch
- 3- Nội dung của nó thường không hợp lý
- 4- Chúng được đặc trưng bởi các hiệu ứng cô đọng
- 5- Kinh tế ngôn ngữ
- 6- Chúng có tính gợi
- 7- Hình dạng
- 8- Dòng
- 9- Stanzas hoặc khổ thơ
- 10- Vần
- 11- Câu
- 12- Tính chủ quan
- 13- Chúng tiến hóa
- Người giới thiệu
Một số đặc điểm của bài thơ là nội dung chưa hợp lý, cấu trúc dòng, khổ thơ và nhịp điệu. Để hiểu rõ hơn về những đặc điểm này, trước hết bạn phải biết thơ là gì.
Từ này xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại và có nghĩa là tạo ra. Nó là một loại hình nghệ thuật trong đó ngôn ngữ của con người được sử dụng cho những phẩm chất thẩm mỹ bên cạnh hoặc thay cho nội dung lý tính và ngữ nghĩa của nó.

Thơ có thể được sử dụng ở dạng cô đọng hoặc nén để truyền tải cảm xúc hoặc ý tưởng đến tâm trí hoặc tai của người đọc hoặc người nghe. Bạn cũng có thể sử dụng các thiết bị như phối âm và lặp lại để đạt được hiệu ứng âm nhạc hoặc hàm ý.
Các bài thơ thường dựa trên tác dụng của chúng đối với hình ảnh, sự liên kết từ ngữ và chất nhạc của ngôn ngữ được sử dụng. Sự phân lớp tương tác của tất cả những hiệu ứng này để tạo ra ý nghĩa là những gì xác định thơ.
Do bản chất của nó, nó nhấn mạnh hình thức ngôn ngữ hơn là sử dụng ngôn ngữ thuần túy cho nội dung của nó.
Nổi tiếng là khó dịch thơ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác: một trường hợp ngoại lệ có thể xảy ra là Thi thiên tiếng Do Thái, nơi vẻ đẹp được tìm thấy nhiều hơn ở sự cân bằng của các ý tưởng hơn là trong từ vựng cụ thể.
Trong hầu hết các bài thơ, nội hàm và “hành trang” mà ngôn từ mang theo (sức nặng của ngôn từ) là quan trọng nhất. Những sắc thái ý nghĩa này có thể khó giải thích và có thể khiến những người đọc khác nhau giải thích bài thơ theo những cách khác nhau.
Đặc điểm cơ bản của bài thơ
1- Chúng thường nhịp nhàng
Nhịp điệu thơ được đánh dấu, chồng lên nhịp điệu "tự nhiên" của bất kỳ ngôn ngữ nào, dường như bắt nguồn từ hai nguồn:
Làm cho việc tuyên bố chung dễ dàng hơn và nhấn mạnh tính chất tập thể của thơ.
Cơ thể có những chu kỳ tự nhiên nhất định (nhịp đập, hơi thở, v.v.) tạo thành ranh giới phân chia giữa tính cách bình thường của các sự kiện bên ngoài và bản ngã và khiến chúng ta có vẻ như đang chủ quan trải nghiệm thời gian một cách đặc biệt và trực tiếp.
Nhịp điệu đưa mọi người vào một liên hoan tập thể tiếp xúc với nhau theo một cách cụ thể, sinh lý và tình cảm. Bản thân sự hướng nội đầy cảm xúc này là một hành vi xã hội.
2- Chúng rất khó dịch
Một trong những đặc điểm của thơ là bản dịch chuyển tải ít cảm xúc cụ thể được khơi dậy bởi chất thơ trong bản gốc.
Điều này có thể được xác nhận bởi bất kỳ ai, sau khi đọc bản dịch, đã học ngôn ngữ của bản gốc. Cái được gọi là "cảm giác" có thể được dịch chính xác. Nhưng cảm xúc thơ cụ thể bay hơi.
3- Nội dung của nó thường không hợp lý
Điều này không có nghĩa là thơ không mạch lạc hay vô nghĩa. Thơ tuân theo các quy tắc của ngữ pháp và nói chung là có khả năng diễn giải, nghĩa là, một loạt mệnh đề mà nó bao gồm có thể được diễn đạt bằng các hình thức văn xuôi khác nhau bằng cùng một ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ khác.
Bởi "hợp lý" có nghĩa là tuân theo những thử thách mà nam giới đồng ý thấy trong môi trường chung của thế giới. Lập luận khoa học là hợp lý theo nghĩa này, thơ ca thì không.
4- Chúng được đặc trưng bởi các hiệu ứng cô đọng
Các hiệu ứng cô đọng là các hiệu ứng thẩm mỹ. Một bức điện tín. "Vợ anh mất ngày hôm qua" có thể mang lại cho người đọc những hiệu ứng cô đọng lạ thường, nhưng tất nhiên không phải là những hiệu ứng thẩm mỹ. Thay vào đó, trong các bài thơ, ngôn ngữ được sử dụng một cách tượng trưng.
Các hiệu ứng phi thẩm mỹ là cá nhân, không phải tập thể, và phụ thuộc vào những trải nghiệm cụ thể, phi xã hội.
Vì vậy, sẽ không đủ để thơ được gán cho ý nghĩa cảm xúc nếu cảm xúc này là kết quả của một trải nghiệm cá nhân cụ thể không thể thực hiện được. Cảm xúc phải được tạo ra từ kinh nghiệm của đàn ông trong xã hội.
5- Kinh tế ngôn ngữ
Một trong những đặc điểm dễ xác định nhất của thơ là tính kinh tế của ngôn ngữ. Các nhà thơ không ngừng chỉ trích cách họ phân phối các từ trên một trang.
Việc lựa chọn từ ngữ một cách cẩn thận để ngắn gọn và rõ ràng là điều cơ bản ngay cả đối với các nhà văn văn xuôi, nhưng các nhà thơ còn vượt xa điều này, khi xem xét các phẩm chất cảm xúc của một từ, giá trị âm nhạc, khoảng cách và thậm chí cả mối quan hệ không gian của nó. với trang.
6- Chúng có tính gợi
Nhìn chung, các bài thơ đều gợi lên trong người đọc một cảm xúc mãnh liệt: vui, buồn, giận, hờn, thương, v.v. Ngoài ra, thơ có khả năng gây ngạc nhiên cho người đọc bằng một sự khám phá, cái nhìn sâu sắc, sự hiểu biết về chân lý và vẻ đẹp nguyên tố.
7- Hình dạng
Mỗi khi chúng ta nhìn vào một bài thơ, điều đầu tiên chúng ta sẽ nhận thấy là hình dạng của nó. Nói cách khác, các bài thơ có một hình thức nhất định.
Một bài thơ sẽ trông rất khác với bài khác, và một bài thơ khác trông rất khác với bài thứ hai, v.v. Mỗi nhà thơ sử dụng “hình thức” sẽ thể hiện hiệu quả nhất những gì mình muốn gửi gắm đến những con người khác.
8- Dòng
Sau khi xem qua một bài thơ và thấy nó có hình dạng nào đó, chúng ta thường nhận thấy rằng nó cũng được tạo thành từ những đường nét, là phương tiện cho những suy nghĩ và ý tưởng của tác giả.
Họ đang xây dựng các khối mà một bài thơ được tạo ra. Các từ trong mỗi dòng tiếp tục như bình thường từ trái sang phải, nhưng kết thúc ở nơi nhà thơ muốn chúng dừng lại.
9- Stanzas hoặc khổ thơ
Các dòng trong một bài thơ thường được chia thành các phần giống như một loại đoạn văn. Chúng là những khổ thơ.
Ngoài ra còn có các khổ thơ, có tên xuất phát từ tiếng Ý "stanza" và dùng để chỉ một khổ thơ gồm 6 dòng 11 âm và 7 vần với vần phụ âm, được lặp đi lặp lại xuyên suốt bài thơ.
10- Vần
Vần là sự bắt chước âm thanh của các âm cuối của từ. Về cơ bản, có hai loại vần được sử dụng trong thơ. Vần đầu tiên, vần cuối, tiêu biểu nhất và được giới trẻ biết đến nhiều nhất.
Loại vần thứ hai được gọi là vần nội. Loại vần này khác với vần cuối ở chỗ vần diễn ra trong dòng chứ không phải ở cuối.
11- Câu
Bài thơ được tạo nên từ những câu thơ. Đây là về sự kết hợp của một loạt các từ được đặt theo cách mà nó duy trì nhịp điệu và chỉ số. Có những câu thuộc nghệ thuật thứ (tối đa 8 âm tiết) và câu của nghệ thuật thứ (từ 9 đến 14 âm tiết).
Mặc dù ít gặp hơn, nhưng cũng có thể tìm thấy những tác giả viết thơ bằng văn xuôi, không kể vần và trắc nhưng vẫn duy trì nhịp điệu và nguồn mạch như khổ thơ.
12- Tính chủ quan
Các bài thơ là chủ quan, vì chúng là sự thể hiện cảm xúc của tác giả, nhưng chúng cũng có thể thay đổi cách nhìn theo cách hiểu của người đọc.
13- Chúng tiến hóa
Tất cả các đặc điểm trên đã và đang hình thành và phát triển theo các trào lưu văn học và bối cảnh xã hội. Cũng như các thể loại văn học khác, bài thơ đã và sẽ luôn phát triển.
Người giới thiệu
- Niko Silvester. 10 yếu tố chính của thơ. (sf). Đã khôi phục từ web.gccaz.edu.
- Các yếu tố của Thơ. (sf). Được khôi phục từ learning.lexiconic.net.
- Đặc điểm của Một bài thơ. (2011). Được khôi phục từ thelitpath.wordpress.com.
- Các yếu tố của Thơ - và Mô tả các Đặc tính Chất lượng. (sf). Được khôi phục từ homeofbob.com.
