Stentor là một nhóm nguyên sinh vật phân biệt với những người khác bởi hình dạng kèn đặc trưng của chúng. Tương tự như vậy, chúng được coi là một trong những sinh vật nguyên sinh lớn nhất, và thậm chí có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Chúng được nhà tự nhiên học người Đức Lorenz Oken mô tả lần đầu tiên vào năm 1815. Chi này bao gồm tổng cộng 20 loài, trong đó một trong những loài được biết đến nhiều nhất là Stentor coeruleus. Mặc dù chúng đã được nghiên cứu đầy đủ, nhưng vẫn còn nhiều khía cạnh sinh học của chúng vẫn còn bị che giấu với khoa học.
Nguồn: Bởi Frank Fox (http://www.mikro-foto.de), qua Wikimedia Commons
Về cấu trúc chúng tương tự như các sinh vật khác của vương quốc này. Tuy nhiên, chúng trình bày một số đổi mới như miệng nguyên thủy. Điều này đã cho phép chúng mở rộng khẩu phần ăn của mình, vì chúng không chỉ ăn vi khuẩn, mà các loài thậm chí còn được biết là ăn luân trùng nhỏ.
Tương tự, các cá nhân trong nhóm này có khả năng thay đổi hình dạng khi cảm thấy bị đe dọa. Trong những trường hợp này, chúng thu lại cơ thể và biến đổi thành một cấu trúc hình cầu, bảo vệ mọi thứ bên trong.
Đây là một nhóm loài vẫn cần được nghiên cứu chi tiết hơn để làm sáng tỏ chính xác hơn các đặc điểm và điều kiện sống của chúng.
Phân loại học
Phân loại phân loại của chi Stentor như sau.
Miền: Eukarya
Vương quốc: Protista
Superfilo: Alveolata
Phylum: Ciliophora
Lớp: Heterotrichea
Đặt hàng: Heterotrichida
Họ: Stentoridae
Chi: Stentor
Hình thái học
Cơ thể của các sinh vật thuộc giống Stentor có hình dạng giống như cái kèn hoặc cái sừng. Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất của nó. Tương tự như vậy, cơ thể được bao phủ bởi các lông mao, có chức năng kép: giúp cá thể di chuyển (bơi) và cuốn trôi thức ăn để cơ thể có thể ăn vào.
Về hình dáng bên ngoài, các loài khác nhau thuộc chi này có màu sắc khác nhau. Đó là trường hợp của Stentor coeruleus, có màu xanh lam.
Ở cấp độ hiển vi, người ta thấy rằng mỗi cá thể có một đại nhân, thường có dạng hình cầu, kèm theo một số vi nhân. Giống như nhiều sinh vật đơn bào khác, những sinh vật thuộc chi Stentor có không bào co bóp giúp duy trì áp suất thẩm thấu.
Về kích thước, nó thay đổi từ loài này sang loài khác. Chúng là một phần của những sinh vật đơn bào lớn nhất, thậm chí có thể đạt tới chiều dài vài mm.
Đặc điểm chung
Các cá thể của chi này thuộc loại sinh vật nhân thực. Điều này có nghĩa là tế bào của chúng có màng tế bào, nhân và tế bào chất, trong đó các bào quan khác nhau nằm rải rác.
Về lối sống, anh ấy là người ít vận động. Các sinh vật thuộc giống Stentor có xu hướng bám vào chất nền thông qua phần hẹp nhất của cơ thể chúng.
Đôi khi chúng có thể sống với một số loại tảo diệp lục theo mối quan hệ cộng sinh. Điều quan trọng cần nhớ là trong kiểu quan hệ giữa các cá thể này, hai cá thể thuộc các loài khác nhau cùng tồn tại, cần nhau để tồn tại.
Trong trường hợp này, tảo đã được Stentor ăn vào. Bên trong cơ thể, nó ăn chất thải được tạo ra trong quá trình dinh dưỡng, trong khi Stentor tận dụng các chất dinh dưỡng mà tảo tổng hợp được.
Để di chuyển trong môi trường nước, các thành viên của chi này sử dụng rất nhiều lông mao bao quanh cơ thể, chúng đóng vai trò như một cơ quan vận động qua nước.
Môi trường sống
Các cá thể thuộc giống Stentor được tìm thấy trong các vùng nước. Họ thích nước ngọt, nhưng không thích nước biển. Tương tự như vậy, chúng không có trong tất cả các vùng nước ngọt, nhưng được tìm thấy trong những vùng nước tĩnh hoặc đọng, chẳng hạn như hồ.
Chúng không được tìm thấy trong các vùng nước chảy, chẳng hạn như sông. Câu trả lời cho điều này có thể được tìm thấy trong sở thích ăn uống của những sinh vật này. Vi khuẩn là thức ăn chính trong chế độ ăn của chúng, đặc biệt là những vi khuẩn tham gia vào quá trình phân hủy và thoái hóa các chất hữu cơ chết.
Ở sông, suối và dòng chảy, quá trình tự nhiên sẽ mang theo bất kỳ chất cặn bã nào, do đó, các thành viên của chi Stentor sẽ không tìm thấy các chất dinh dưỡng sẵn có.
Dinh dưỡng
Stentor chủ yếu ăn vi khuẩn và các sinh vật cực nhỏ trôi nổi tự do trong nước. Về cấu tạo, nó có một miệng nguyên thủy được gọi là túi miệng, qua đó thức ăn đi vào cơ thể của cá thể.
Các lông mao nằm gần nó di chuyển nhịp nhàng để mang các phần thức ăn có thể lại gần nhau hơn.
Một khi điều này xảy ra, không bào tiêu hóa bắt đầu phát huy chức năng của mình, không bào chứa các enzym chịu trách nhiệm phân hủy và phân mảnh các chất dinh dưỡng để chúng dễ đồng hóa hơn.
Sau đó, cũng như trong bất kỳ quá trình tiêu hóa nào, một số chất cặn bã vẫn còn lại sẽ được tống ra ngoài Stentor với sự hỗ trợ của không bào co bóp. Các chất dinh dưỡng ăn vào được sử dụng cho các quá trình tạo năng lượng.
Sinh sản
Làm thế nào trong phần lớn các sinh vật của Vương quốc Protista, những sinh vật thuộc giống Stentor sinh sản thông qua cơ chế vô tính. Đặc điểm nổi bật của kiểu sinh sản này là con cháu giống hệt bố mẹ đã tạo ra chúng.
Quá trình cụ thể mà các thành viên của chi Stentor sinh sản được gọi là sự phân hạch nhị phân. Trong trường hợp này, cá mẹ được chia thành hai cá thể bằng nhau.
Bước đầu tiên cần thiết để xảy ra sự phân hạch nhị phân là nhân đôi DNA. Điều này là cần thiết vì mỗi cá thể mới phải nhận đầy đủ tải trọng di truyền của bố và mẹ.
Một khi DNA đã được nhân đôi qua quá trình nguyên phân, cả hai bản sao của vật liệu di truyền thu được sẽ di chuyển đến các cực đối diện của tế bào. Ngay lập tức cơ thể của cá thể bắt đầu trải qua quá trình phân đoạn theo chiều dọc.
Cuối cùng, tế bào chất và màng tế bào lên đến đỉnh điểm của quá trình phân chia, do đó tạo ra hai cá thể hoàn toàn bằng nhau và giống bố mẹ.
Đúng như dự đoán, kiểu sinh sản này không thuận lợi lắm đối với những sinh vật có nó, vì không có sự biến đổi gen, những loài này không thể tồn tại khi đối mặt với những thay đổi bất lợi của điều kiện môi trường. Đây là nhược điểm lớn của sinh sản vô tính.
Tương tự, một kiểu sinh sản hữu tính đã được mô tả giữa các sinh vật thuộc giống này. Quá trình cụ thể mà điều này xảy ra được gọi là quá trình liên hợp.
Để hiểu được quá trình này, cần biết rằng bên trong các cá thể này có hai cấu trúc quan trọng: đại nhân và vi nhân. Vi nhân là DNA mà hai sinh vật sẽ trao đổi khi chúng giao phối.
Quá trình này ở Stentor xảy ra theo cách sau: khi hai sinh vật thuộc giống này gặp nhau, chúng có thể giao hợp với mục đích sinh sản. Sau khi quá trình trao đổi vi hạt nhân diễn ra, chúng tổ chức lại, tạo bản sao và biến đổi thành đại nhân.
Sau đó, theo thời gian, mỗi con sẽ trải qua nhiều lần phân chia bằng cách sinh sản vô tính (phân hạch nhị phân), cuối cùng, nó sẽ lại sẵn sàng cho một lần giao phối khác.
Thở
Các cá thể thuộc chi Stentor là loài nguyên thủy, do đó chúng không có cấu trúc chuyên biệt để hấp thụ oxy xung quanh. Có tính đến điều này, họ phải sử dụng các quy trình cực kỳ đơn giản để đáp ứng nhu cầu của họ về yếu tố này.
Quá trình mà những sinh vật này sử dụng để lấy oxy là hô hấp trực tiếp, thông qua khuếch tán. Oxy có thể đi qua màng tế bào của nó, theo gradient nồng độ. Đó là, từ nơi nó tập trung nhiều nhất đến nơi nó ít tập trung nhất.
Đây là cách nó quản lý để xâm nhập vào tế bào được sử dụng trong các quá trình trao đổi chất khác nhau. Một khi điều này xảy ra, một khí khác được tạo ra, carbon dioxide (CO 2 ), rất độc đối với tế bào, vì vậy nó phải được trục xuất ra khỏi tế bào.
Một lần nữa, tận dụng sự khuếch tán đơn giản, tế bào giải phóng nó ra môi trường bên ngoài, qua màng.
Người giới thiệu
- Haak, D. Stentor Protists: Sinh sản, Giải phẫu & Môi trường sống. Lấy từ: Study.com
- Kumazawa, H. (2002). Ghi chú về Phân loại của Stentor Oken (Động vật nguyên sinh, Ciliophora) và mô tả về một loài mới. Tạp chí Sinh vật phù du Số 24 (1). 69-75
- Moxon, W. Về một số điểm trong giải phẫu của Stentor và phương thức phân chia của nó. Lấy từ: ncbi.nlm.nih.gov.
- Tartar, V. (1961). Sinh học của Stentor. Pergamon Press.
- Webb, H. (2007). Stentors. Tạp chí Micscape.