- Đặc điểm chung
- Ở chuột
- Ở người
- Từ đồng nghĩa
- Khám phá
- FIZZ3
- ADSF
- Resistin
- cấu trúc
- Đặc trưng
- Bệnh tật
- Người giới thiệu
Các resistin , còn được gọi là mô mỡ yếu tố tiết cụ thể (ADSF cho tiếng Anh ngắn), là một hormone peptide giàu cysteine. Tên của nó là do mối tương quan tích cực (đề kháng) mà nó thể hiện với hoạt động của insulin. Nó là một cytokine có từ 10 đến 11 cysteine dư.
Nó được phát hiện vào năm 2001 trong tế bào mỡ (mô mỡ) của chuột và trong tế bào biểu mô và miễn dịch của người, chó, lợn, chuột và một số loài linh trưởng.
Resistin. Lấy và chỉnh sửa từ: Ashley Hellenbrand, qua Wikimedia Commons Vai trò của hormone này đã gây nhiều tranh cãi kể từ khi được phát hiện, do nó liên quan đến sinh lý của bệnh tiểu đường và béo phì. Nó cũng được biết là có các tác động y tế khác, chẳng hạn như sự gia tăng cholesterol xấu và lipoprotein mật độ thấp trong động mạch.
Đặc điểm chung
Resistin là một phần của họ các phân tử loại resistin (Resistin như phân tử, RELM). Tất cả các thành viên của họ RELM đều có trình tự đầu N, trình tự này thể hiện tín hiệu bài tiết nằm trong khoảng từ 28 đến 44 dư.
Chúng có vùng hoặc vùng trung tâm thay đổi, với đầu tận cùng là carboxyl, vùng thay đổi từ 57 đến khoảng 60 gốc, được bảo quản hoặc bảo tồn cao và dồi dào cysteine.
Protein này đã được tìm thấy trong một số loài động vật có vú. Hầu hết sự chú ý đều hướng đến resistin do chuột tiết ra và có ở người. Hai protein này có từ 53 đến 60% độ giống nhau (tương đồng) trong trình tự axit amin của chúng.
Ở chuột
Ở những loài động vật có vú này, nguồn resistin chính là các tế bào mỡ hoặc mô mỡ trắng.
Resistin ở chuột rất giàu cysteine 11 kDa. Gen của protein này nằm trên nhiễm sắc thể thứ tám (8). Nó được tổng hợp như một tiền chất 114 axit amin. Chúng cũng có một chuỗi tín hiệu 20 axit amin và một đoạn 94 axit amin trưởng thành.
Cấu trúc resistin ở chuột có năm liên kết disulfide và nhiều vòng β. Nó có thể tạo thành phức hợp của hai phân tử giống nhau (homodimers) hoặc tạo thành protein có cấu trúc bậc bốn (đa phân) với kích thước khác nhau nhờ các liên kết disulfide và không disulfide.
Ở người
Resistin ở người được đặc trưng như ở chuột hoặc các động vật khác, là một protein peptide giàu cysteine, chỉ có điều ở người là 12 kDa, với trình tự trưởng thành gồm 112 axit amin.
Gen của loại protein này được tìm thấy trên nhiễm sắc thể số 19. Nguồn cung cấp resistin ở người là tế bào đại thực bào (tế bào của hệ miễn dịch) và mô biểu mô. Nó lưu thông trong máu dưới dạng một protein dimeric gồm 92 axit amin được liên kết bởi các liên kết disulfide.
Biểu đồ lý tưởng của nhiễm sắc thể người, làm nổi bật nhiễm sắc thể số 19, nơi gen của protein resistin được tìm thấy. Lấy và biên tập từ: Trung tâm Thông tin Công nghệ Sinh học Quốc gia, Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ, qua Wikimedia Commons.
Từ đồng nghĩa
Resistin được biết đến với nhiều tên khác nhau, bao gồm: protein tiết ra giàu cysteine FIZZ3 (protein tiết ra giàu cysteine FIZZ3), yếu tố bài tiết đặc hiệu mô mỡ (ADSF), yếu tố bài tiết đặc hiệu mô mỡ (ADSF), protein giàu protein tiết cysteine đặc hiệu do tủy bào điều chỉnh C / EBP-epsilon, protein tiết ra giàu cysteine A12-alpha-like 2 (Protein tiết ra giàu cysteine A12- alpha-like 2), RSTN, XCP1, RETN1, MGC126603 và MGC126609.
Khám phá
Protein này tương đối mới đối với cộng đồng khoa học. Nó được phát hiện độc lập bởi ba nhóm nhà khoa học vào đầu thế kỷ này, những người đã đặt cho nó những cái tên khác nhau: FIZZ3, ADSF và resistin.
FIZZ3
Nó được phát hiện vào năm 2000, trong mô phổi bị viêm. Ba gen từ chuột và hai gen tương đồng từ người liên quan đến việc sản xuất protein này đã được xác định và mô tả.
ADSF
Protein được phát hiện vào năm 2001, nhờ vào việc xác định yếu tố bài tiết giàu cystine (Ser / Cys) (ADSF) đặc trưng cho mô lipid trắng (adiposites).
Protein này được giao một vai trò quan trọng trong quá trình biệt hóa từ tế bào đa năng thành tế bào mỡ trưởng thành (adipogenesis).
Resistin
Cũng trong năm 2001, một nhóm các nhà nghiên cứu đã mô tả cùng một loại protein giàu cystine trong mô lipid trưởng thành của chuột, mà họ gọi là resistin vì khả năng kháng insulin của nó.
cấu trúc
Về mặt cấu trúc, người ta đã biết rằng protein này được tạo thành từ vùng phía trước hoặc vùng đầu hình laminar và vùng phía sau hình xoắn ốc (đuôi), tạo thành các oligome có trọng lượng phân tử khác nhau, tùy thuộc vào việc nó là người hay có nguồn gốc khác.
Nó có một vùng trung tâm với dư lượng 11 Ser / Cys (Serine / Cysteine) và một vùng cũng giàu Ser / Cys có trình tự CX11CX8CXCX3CX10CXCXCX9CCX3-6, trong đó C là Ser / Cys và X là bất kỳ axit amin nào.
Nó có một thành phần cấu trúc được coi là bất thường, vì nó được hình thành bởi một số tiểu đơn vị liên kết với nhau bằng các tương tác không cộng hóa trị, tức là chúng không sử dụng các electron mà là các biến thể điện từ phân tán để tạo nên cấu trúc của chúng.
Đặc trưng
Các chức năng của resistin, cho đến nay, là chủ đề của cuộc tranh luận khoa học rộng rãi. Trong số những phát hiện có liên quan nhất về tác dụng sinh học ở người và chuột là:
- Nhiều mô ở người và chuột phản ứng với resistin, bao gồm tế bào gan, cơ, tim, miễn dịch và chất béo.
- Những con chuột bị tăng tiết chất dinh dưỡng (tức là, với mức độ resistin cao) bị rối loạn tự điều chỉnh glucose (cân bằng nội môi).
- Resistin làm giảm sự hấp thu glucose do insulin kích thích trong các tế bào cơ tim.
- Trong các tế bào miễn dịch (đại thực bào) ở người, resistin cảm ứng sản xuất các protein điều phối phản ứng của hệ thống miễn dịch (cytokine gây viêm)
Bệnh tật
Ở người, protein này được cho là góp phần sinh lý vào việc đề kháng insulin ở bệnh đái tháo đường.
Vai trò của nó đối với bệnh béo phì vẫn chưa được biết rõ, mặc dù người ta đã phát hiện ra rằng có mối tương quan giữa việc tăng mô mỡ và nồng độ resistin, tức là béo phì làm tăng nồng độ resistin trong cơ thể. Nó cũng đã được chứng minh là nguyên nhân gây ra lượng cholesterol xấu trong máu cao.
Resistin điều chỉnh các con đường phân tử trong các bệnh lý viêm và tự miễn. Nó trực tiếp gây ra sự thay đổi chức năng của nội mạc, từ đó dẫn đến xơ cứng động mạch hay còn gọi là xơ vữa động mạch.
Resistin hoạt động như một chất chỉ thị bệnh và thậm chí là một công cụ lâm sàng dự đoán bệnh tim mạch. Nó liên quan đến việc sản xuất các mạch máu (hình thành mạch), huyết khối, hen suyễn, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu, bệnh thận mãn tính, trong số những bệnh khác.
Người giới thiệu
- CC Juan, LS Kan, CC Huang, SS Chen, LT Ho, LC Au (2003). Sản xuất và xác định đặc tính của resistin tái tổ hợp có hoạt tính sinh học ở Escherichia coli. Tạp chí Công nghệ Sinh học.
- Sự phản kháng của con người. Pospec. Được khôi phục từ prospecbio.com.
- S. Abramson. Kết quả lại. Được khôi phục từ collab.its.virginia.edu.
- G. Wolf (2004), Đề kháng insulin và béo phì: resistin, một loại hormone được tiết ra bởi mô mỡ. Đánh giá dinh dưỡng.
- M. Rodríguez Pérez (2014), Nghiên cứu các chức năng sinh học của S-Resistin. Báo cáo được trình bày cho Đại học Castilla-La Mancha, để xin chức danh Tiến sĩ Hóa sinh. 191.
- A. Souki, NJ Arráiz-Rodríguez, C. Prieto-Fuenmayor,… C. Cano-Ponce (2018), Các khía cạnh cơ bản trong bệnh béo phì. Barranquilla, Colombia: Phiên bản Đại học Simón Bolívar. 44 tr.
- Md.S. Jamaluddin, SM Weakley, Q. Yao, & C. Chen (2012). Resistin: vai trò chức năng và cân nhắc điều trị đối với bệnh tim mạch. Tạp chí Dược học Anh.
- Kháng cự. Khôi phục từ en.wikipedia.org.
- DR Schwartz, MA Lazar (2011). Resistin của con người: Được tìm thấy trong bản dịch từ chuột sang người. Xu hướng Nội tiết và Chuyển hóa.